Bối cảnh
Quần đảo Hoàng Sa gồm hai nhóm đảo, nhóm đảo mà Việt Nam Cộng hòa bảo vệ và thực hiện được chủ quyền là nhóm Nguyệt Thiềm hay Trăng Khuyết (Crescent group) và nhóm Bắc đảo hay An Vĩnh/Tuyên Đức (Amphitrite group). Dưới thời Việt Nam Cộng hòa đã có đài khí tượng do Pháp xây, trực thuộc ty khí tượng Đà Nẵng và được bảo vệ bởi một tiểu đoàn thủy quân lục chiến.
Năm 1956, Hải quân Trung Quốc chiếm đóng đảo Phú Lâm (Woody Island) thuộc nhóm Bắc đảo.
Năm 1958, Trung Quốc cho công bố bản Tuyên ngôn Lãnh hải 4 điểm, trong đó có tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc bao gồm các đảo Đài Loan, Tây Sa (tức Hoàng Sa) và Nam Sa (tức Trường Sa), đảo Macclesfield (Trung Sa), quần đảo Bành Hồ (Pescadores)[1].
Vào giai đoạn này, Trung Quốc vẫn là đồng minh hậu thuẫn cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiến hành cuộc Chiến tranh Việt Nam chống lại Việt Nam Cộng hòa và Hoa Kỳ.
Ngày 22 tháng 9 năm 1958, báo Nhân Dân đăng công hàm của Thủ tướng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Phạm Văn Đồng gửi Thủ tướng Quốc vụ Viện Trung Quốc, ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của chính phủ Trung Quốc quyết định về hải phận 12 hải lí của Trung Quốc[2].
Năm 1961, chính phủ Việt Nam Cộng hòa ban hành sắc lệnh khẳng định chủ quyền Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Nam của Việt Nam Cộng hòa.
Trong thời gian 1964-1970, Hải quân Trung Quốc và Hải quân Việt Nam Cộng hòa chạm súng liên tục trên hải phận Hoàng Sa, nhưng không đưa đến thương vong. Trong thời điểm đó, Việt Nam Cộng hòa cũng thiết lập một sân bay nhỏ tại đảo Hoàng Sa.
Năm 1970, Hoa Kỳ và Nhật Bản ký Hiệp ước trao trả Okinawa (Okinawa Reversion Treaty) trao trả quần đảo Điếu Ngư (Diaoyu) (tức Sento Shosho hay Senkaku Retto của Nhật Bản) về dưới chủ quyền của Nhật Bản với sự phản đối của Đài Loan và Trung Quốc; và cùng năm Đô đốc Elmo Zumwalt, cựu Tham mưu trưởng Hải quân Hoa Kỳ họp báo tuyên bố tại Guam rằng Hoàng Sa và Trường Sa không nằm trong chiến lược triển khai các hải đảo tiền đồn của Đệ thất Hạm đội Hoa Kỳ. Theo nhận định của Hải quân Việt Nam Cộng hòa thì đây là sự kiện trao đổi giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, và là nguy cơ cho Việt Nam Cộng hòa trong việc bảo vệ Hoàng Sa.
Năm 1971, Hải quân Trung Quốc và Hải quân Việt Nam Cộng hòa tiếp tục chạm súng trên hải phận Hoàng Sa. ] Những năm cuối của cuộc Chiến tranh Việt Nam, vì nhu cầu chiến trường, tiểu đoàn thủy quân lục chiến của Việt Nam Cộng hòa tại Hoàng Sa được đưa vào đất liền, chỉ còn một trung đội địa phương quân trấn giữ nhóm Nguyệt Thiềm.
Năm 1973, với Hiệp định Paris, Hoa Kỳ và Đệ thất Hạm đội rút quân và thiết bị của Hoa Kỳ ra khỏi quần đảo Hoàng Sa. Như vậy Hoa Kỳ đã xem việc bảo vệ quần đảo này là việc riêng của Việt Nam Cộng hòa.
Năm 1974 Bộ tư lệnh Hải quân Việt Nam Cộng hòa quyết định thiết lập một phi trường trên đảo Hoàng Sa có khả năng chuyên chở vận tải cơ hạng nặng C-7 Caribou để chuyển quân nhanh ra nhóm Nguyệt Thiềm. Khi một phái đoàn của Quân lực Việt Nam Cộng hòa thăm dò một số đảo Hoàng Sa trong việc chuẩn bị thiết lập phi trường nói trên thì khám phá ra sự hiện diện của Hải quân Trung Quốc, và giao tranh xảy ra sau đó.
Tương quan lực lượng
Phía Việt Nam Cộng hòa có 4 chiếm hạm là Tuần dương hạm Lý Thường Kiệt (HQ-16), Hộ tống hạm Nhật Tảo (HQ-10), Tuần dương hạm Trần Bình Trọng (HQ-5), Khu trục hạm Trần Khánh Dư (HQ-4), một đại đội hải kích thuộc Hải quân Việt Nam Cộng hòa, một số biệt hải (biệt kích hải quân) và một trung đội địa phương quân đang trú phòng tại đảo Hoàng Sa.
Phía Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa có 4 chiếm hạm trực tiếp tham gia trận chiến là Liệp tiềm đĩnh số 274, Liệp tiềm đĩnh số 271, Tảo lôi hạm số 389, Tảo lôi hạm số 391. Sau khi trận chiến đã kết thúc, thì Liệp tiềm đĩnh số 282, Liệp tiềm đĩnh số 281 mới đến tăng viện. Ngoài ra, phía Trung Quốc có hai tàu chở quân số 402 và số 407 (không rõ loại), và lực lượng thuộc Trung đoàn 10 Hải quân lục chiến, trinh sát (không rõ số lượng).
Tương quan lực lượng, mỗi bên có 4 chiến hạm trực tiếp tham chiến. Tuy nhiên, Việt Nam Cộng hòa có ưu thế vượt trội, với các chiến hạm lớn, trang bị pháo và súng lớn hơn, mạnh hơn, nhiều hơn so với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
Diễn tiến
Ngày 16 tháng 1 năm 1974, Tuần dương hạm Lý Thường Kiệt sau khi đưa một phái đoàn của Quân lực Việt Nam Cộng hòa thăm dò một số đảo Hoàng Sa phát hiện hai chiến hạm số 402 và số 407 của Hải quân Trung Quốc gần Cam Tuyền, và phát hiện quân Trung Quốc chiếm đóng hoặc cắm cờ Trung Quốc tại các đảo Quang Hòa, Duy Mộng, Vĩnh Lạc.
Bích chương của Trung Quốc nói về trận chiến ở Hoàng SaSau khi cấp báo về Bộ tư lệnh Hải quân Vùng 1 Duyên hải tại Đà Nẵng, HQ-16 dùng quang hiệu yêu cầu các chiến hạm Trung Quốc rời lãnh hải Việt Nam. Các chiến hạm Trung Quốc không rời vùng, và cũng dùng quang hiệu yêu cầu phía Việt Nam Cộng hòa rời lãnh hải Trung Quốc.
Ngày 17 tháng 1 năm 1974, Khu trục hạm Trần Khánh Dư (HQ-4) đến Hoàng Sa đổ bộ một toán biệt hải và một đội hải kích xuống Cam Tuyền để nhổ cờ Trung Quốc. Sau đó các chiến sĩ Việt Nam Cộng hòa rút trở lên tàu. Cùng trong ngày Liệp tiềm đĩnh số 274 và Liệp tiềm đĩnh số 271 của Trung Quốc xuất hiện.
Ngày 18 tháng 1 năm 1974, Đề đốc Lâm Ngươn Tánh, Tư lệnh phó Hải quân Việt Nam Cộng hòa bay ra Bộ tư lệnh Hải quân Vùng 1 Duyên hải tại Đà Nẵng để trực tiếp chỉ huy trận đánh. Ông ban hành lệnh hành quân Hoàng Sa 1 nhằm chiếm lại các đảo Cam Tuyền, Quang Hòa, Duy Mộng, Vĩnh Lạc. Lực lượng hành quân Hoàng Sa 1 được tăng cường thêm Tuần dương hạm Trần Bình Trọng (HQ-5) làm soái hạm cho cuộc hành quân, và Hộ tống hạm Nhật Tảo (HQ-10). Do hải hành lâu ngày chưa kịp tu bổ, HQ-10 tham chiến với một máy bất khiển dụng, chỉ còn một máy hoạt động.
8 giờ 30 ngày 19 tháng 1, hai nhóm Biệt Hải của Việt Nam Cộng hòa gồm 74 người đổ quân đảo Quang Hòa, bị một đại đội của hải quân Trung Quốc tấn công. Cuộc giao tranh dẫn đến thương vong của Hải quân VNCH gồm có 2 người chết và 2 bị thương, các toán Biệt Hải được lệnh rút về HQ-5.
10 giờ 22 cùng ngày, 2 chiến hạm của phía Việt Nam Cộng hòa là HQ-16 và HQ-10 tiến vào lòng chảo Hoàng Sa theo thế gọng kìm, nổ súng trước vào các tàu chiến Trung Quốc đang neo đậu trong khu vực này. Các tàu Trung Quốc tích cực di chuyển và phản kích dữ dội. Hai chiến hạm còn lại của Việt Nam Cộng hòa là HQ-4 và HQ-5 tiến vào lòng chảo, tham chiến từ phía tây nam. Sau khoảng 20 phút giao chiến, HQ-10 bốc cháy tại chỗ, HQ-16 trúng đạn pháo phải rút chạy về phía tây. Khu trục hạm HQ-4 và HQ-5 thương tích rất nhẹ, bỏ chạy về phía đông nam, hướng về vịnh Subic, Philippines. Các tàu phía Trung Quốc bị hư hại nặng, một tàu phải ủi bãi, một tàu bốc cháy, không đủ sức đuổi theo.
Trong thời gian xảy ra chiến sự, Bộ tư lệnh Hải quân Việt Nam Cộng hòa nhận được thông báo của Văn phòng Tùy viên Quân sự Hoa Kỳ (DAO) tại Sài Gòn, cho biết radar Đệ thất Hạm đội ghi nhận một số tàu chiến và chiến đấu cơ từ Hải Nam đang tiến về phía Hoàng Sa. Bộ tư lệnh Hải quân Việt Nam Cộng hòa sau đó yêu cầu Đệ thất Hạm đội trợ giúp, nhưng phía Mỹ từ chối. Các chiến hạm Việt Nam Cộng hòa được lệnh rút bỏ quần đảo Hoàng Sa.
Đêm hôm đó, 3 chiến hạm VNCH bị hư hại được lệnh rút về căn cứ. Về đến Đà Nẵng, khi kiểm tra thì mới biết HQ-16 bị chính hỏa lực bạn là HQ-5 bắn trọng thương. Đối với Hộ tống hạm HQ-10 trong ngày 19 đã bị trúng đạn và bị chìm.
Hôm sau, 20 tháng 1, 4 phi cơ MiG-21 và MiG-23 của Trung Quốc oanh tạc các đảo Cam Tuyền, Vĩnh Lạc, và Hoàng Sa. Tiếp đó, quân Trung Quốc đổ bộ tấn công các đơn vị đồn trú của VNCH trên các đảo này. Sau 20 phút, lực lượng của VNCH trên các đảo bị mất liên lạc.
Kết quả
Tảo lôi hạm số 389 Hải quân Trung QuốcTheo tài liệu của Việt Nam Cộng hòa thì 274 trúng đạn, tay lái bất khiển dụng phải ủi vào bãi san hô để thủy thủ đoàn đào thoát, 271 hoặc 389 bị chìm tại trận, và 389 và 391 bị hư hại nặng. HQ-10 trúng đạn vào pháo tháp bị chìm tại trận, HQ-16 bị hư hại nặng nghiêng 15 độ, HQ-5 và HQ-4 bị hư nhẹ. Gần 50 thủy thủ tử vong và hạm trưởng Ngụy Văn Thà của HQ-10 tuẩn tiết theo tàu. Ngoài ra HQ-5 có 3 quân nhân tử vong và 16 bị thương. Hai ngày sau trận hải chiến, ngày 20 tháng 1, tàu chở dầu Hòa Lan "Kopionella" vớt được 23 người thuộc thủy thủ đoàn của HQ-10 đang trôi dạt trên biển. Đến mười ngày sau, ngày 29 tháng 1, ngư dân Việt Nam vớt được một toán quân nhân Việt Nam Cộng hòa gần Mũi Yến (Qui Nhơn), gồm 1 sĩ quan, 2 hạ sĩ quan và 12 quân nhân thuộc lực lượng đổ bộ lên Quang Hòa, đã dùng bè vượt thoát đảo sau trận hải chiến.
Theo một bài "Không thể chấp nhận được!" của Bùi Thanh đăng trên báo Tuổi Trẻ online ngày Thứ Năm, 06/12/2007, 08:14 (GMT+7}. "Trong trận hải chiến lịch sử và không cân sức này, 58 binh sĩ quân đội Sài Gòn đã ngã xuống nhưng không giữ được mảnh đất thiêng liêng của ông cha."
Theo tài liệu của Trung Quốc thì 274, 271, 389, 391 đều trúng đạn, 281, 282 và 402, 407 bị hư hại trung bình, HQ-10 bị chìm tại trận. Trung Quốc bắt giữ 48 tù binh, trong đó có một người Mỹ[11]. Trung Quốc có trao trả tù binh sau đó tại Hồng Kông qua Hội Chữ thập đỏ.
Trung Quốc chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa từ thời điểm này. Sau trận chiến, Việt Nam Cộng hòa đã ra nhiều tuyên bố cũng như trưng ra các chứng cớ lịch sử về chủ quyền của mình và đã được Chính phủ Pháp ủng hộ vì trước đây theo Hòa ước Pháp Thanh thì người Pháp đã thực hiện chủ quyền ở quần đảo này. Tuy nhiên, Trung Quốc đã cho đập phá các bia chủ quyền tại quần đảo Hoàng Sa, đào các mộ của người Việt đã chôn ở đây, xóa các di tích lịch sử của người Việt.
Phản ứng trước vụ việc, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chỉ tuyên bố rằng "các nước liên quan nên giải quyết mâu thuẫn bằng đàm phán trên tinh thần bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, và quan hệ láng giềng". [cần dẫn nguồn] Họ đã không thể làm gì hơn, do Hoàng Sa nằm ngoài tầm kiểm soát của họ, và họ vẫn cần đến viện trợ quân sự và kinh tế của Trung Quốc. Ngay sau khi chiến tranh Việt Nam kết thúc, Việt Nam đã tuyên bố chủ quyền đối với cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Việc này đã gây ra sự bất bình lớn của Trung Quốc và bắt đầu một thời kỳ quan hệ căng thẳng giữa hai nước Việt Nam - Trung Quốc.
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay vẫn khẳng định chủ quyền hợp pháp đối với toàn bộ quần đảo Hoàng Sa và vùng lãnh hải liên quan trên biển Đông
Như tin tức chúng tôi đã đưa, các ngư dân Quảng Ngãi trong khi đi tránh cơn bão số 9, hay còn gọi là bão Ketsana, đã trải qua những ngày giờ kinh hòang vì bị hải quân Trung Quốc đe dọa, đánh đập và trấn lột. Vụ việc này làm tăng thêm mối bất bình của người dân đối với những hành động sai trái của Trung Quốc. Đồng thời, một lần nữa, dấy lên sự quan ngại của nhiều người đối với vấn đề chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hòang Sa.
AFP photo
Những tàu đánh cá về bến. (ảnh minh họa)
Việt Nam không xâm lược ai và cũng không để nước nào xâm phạm
Khánh An phỏng vấn Thứ Trưởng Bộ Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn, ông Lương Lê Phương, để tìm hiểu quan điểm của cơ quan chức năng này trong vấn đề bảo vệ lợi ích của ngư dân.
Khánh An: Thưa Thứ Trưởng, chắc hẳn là ông đã biết đến vụ việc mà ngư dân Quảng Ngãi vừa bị hải quân Trung Quốc đe dọa, đánh đập, phải không ạ?
Cái việc làm đó là không đúng với luật pháp quốc tế, không đúng với mối quan hệ hữu hảo giữa hai quốc gia láng giêng. Việc đó thì cũng đã có công hàm gửi sang phía bên Trung Quốc. Chúng tôi rất mong muốn là không để tái diễn cái tình trạng đó từ phía Trung Quốc.
Thứ Trưởng Bộ Nông Nghiệp
Thứ trưởng Lương Lê Phương: Cái này thực ra là tôi chưa đi ra đó nhưng mà tôi có cử người ra đó rồi, thì nói chung là có cái việc đó nhưng mà không biết là nó trầm trọng đến mức độ nào, tôi chưa biết. Trong khi đó là có cái ức hiếp đó, còn cụ thể như thế nào thì tôi chưa nắm được.
Khánh An: Vậy những người được cử ra đó thì họ sẽ làm gì và bao lâu thì có thể biết được kết quả, thưa ông?
Thứ trưởng Lương Lê Phương: Đã cử rồi, ra cứu trợ họ. Ra tới đảo Lý Sơn cưú trợ. Thì những người đó là những người mà bị bắt cũng mấy ngày rồi gia đình họ khó khăn mình cứu trợ. Cái việc làm đó là không đúng với luật pháp quốc tế, không đúng với mối quan hệ hữu hảo giữa hai quốc gia láng giềng. Việc đó thì cũng đã có công hàm gửi sang phía bên Trung Quốc. Chúng tôi rất mong muốn là không để tái diễn tình trạng đó từ phía Trung Quốc.
Khánh An: Vậy thì những ngư dân của mình họ sẽ phải làm gì khi mà hằng ngày họ vẫn phải tiếp tục làm việc để sinh sống?
Thứ trưởng Lương Lê Phương: Cái thứ nhất là đi khai thác biển nên theo đoàn đội và theo hướng dẫn của Bộ Nông Nghiệp, còn tình trạng trước đây là theo những tổ liên kết với nhau, những đoàn, những đội, để có thể là ứng cứu giúp đỡ lẫn nhau trong trường hợp bão lũ.
Và Việt Nam chủ trương là không có xâm phạm chủ quyền của bất cứ quốc gia nào và cũng không để cho nước nào xâm phạm, thì cái này phải có những cái bảo vệ ngư dân, bảo vệ trong thời gian tới.
Thứ Trưởng Bộ Nông Nghiệp
Cái thứ hai nữa có thể là giúp đỡ lẫn nhau trong trường hợp máy móc có trục trặc. Thứ ba nữa là để đối phó với những vấn đề mà bị các lực lượng nước ngoài họ làm trái luật. Cái thứ tư là ngư dân nên theo dõi thời tiết, khí hậu, và không có đi vào những cái vùng mà không phải là chủ quyền của Việt Nam, mà thật ra là Hoàng Sa khẳng định là chủ quyền của Việt Nam rồi.
Việc đó hoàn toàn là không đúng với lại luật pháp quốc tế của Trung Quốc. Tôi muôn nói ở đây là nói các láng giềng đấy, láng giềng của Việt Nam, ví dụ các nước Đông Nam Á vậy đó, thì đôi lúc ngư dân ngoài biển không có rõ ranh giới thì cũng nên tìm hiểu cho kỹ.
Và Việt Nam chủ trương là không có xâm phạm chủ quyền của bất cứ quốc gia nào và cũng không để cho nước nào xâm phạm, thì cái này phải có những cái bảo vệ ngư dân, bảo vệ trong thời gian tới.
Thật ra chúng tôi với quan điểm là hữu hảo và dân chủ hoá, chúng tôi không muốn dùng những lực lượng quân sự, tại vì Việt Nam là nước yêu chuộng hoà bình và cũng không khả năng mà để mà xâm lược ai, cho nên dứt khoát là chúng tôi không để ai xâm lược mình.
Sẽ có kế họach bảo vệ ngư nhân
Khánh An: Thế còn hiện nay lực lượng bảo vệ cho ngư dân thì như thế nào, thưa ông?
Thứ trưởng Lương Lê Phương: Thật ra chúng tôi với quan điểm là hữu hảo và dân sự hoá, chúng tôi không muốn dùng những lực lượng quân sự, tại vì Việt Nam là nước yêu chuộng hoà bình và cũng không khả năng mà để mà xâm lược ai, cho nên dứt khoát là chúng tôi không để ai xâm lược mình.
Thì cái việc đó là thuôc về cái bảo vệ chủ quyền quốc gia và những cơ quan chức năng khác của Bộ Nông Nghiệp sẽ lo về việc này.
Khánh An: Vậy thì ngư dân có nên tiếp tục đến những khu vực này để khai thác không ạ?
Thứ trưởng Lương Lê Phương: Những chỗ nào không thuộc lãnh hải mình thì mình không nên đến, mà thuộc lãnh hải mình thì mình tiếp tục khai thác vì đó là đất của ông cha đã giành chủ quyền.
Khánh An: Vâng thưa ông, nhưng mà vụ việc xảy ra gần đây cũng gây ra một tâm lý lo lắng, phải nói là lo sợ ở rất là nhiều ngư dân. Không biết chính quyền có biện pháp gì để có thể giúp cho ngư dân yên tâm ra khơi không, thưa ông?
Thứ trưởng Lương Lê Phương: Cái đó ở cấp lãnh đạo cấp cao hơn, tôi là cấp chuyên môn kỹ thuật thì tôi ở cấp thẩm quyền mình thì tôi có quan điểm là sẽ tiếp tục khai thác vùng biển của mình. Còn đối với các cấp có thẩm quyền cao hơn thì sẽ có những chủ trương cụ thể hơn
Khánh An: Vâng. Rất cảm ơn Thứ trưởng Lương Lê Phương đã dành cho RFA cuộc phỏng vấn này.
Người nhái Hải Quân CSVN
Đoàn M26 Đặc công Hải quân (thường gọi là Đặc công nước) trước đây mang tên: Đoàn huấn luyện Đặc công nước M26 Hải quân, thành lập 13/4/1966.
|
Trang bị của một tổ Đặc công “Người nhái” |
Đặc công nói chung và Đặc công nước nói riêng được gọi là binh chủng “Đặc biệt tinh nhuệ”. Đối tượng tuyển quân là những thanh niên có sức khỏe, có trình độ văn hóa, ý thức chính trị cao, biết bơi và sống ở các tỉnh vùng ven biển như: Quảng Ninh, Hải Phòng, Thanh Hóa, Nam Định, Thái Bình...
|
Lên bờ, hoàn thành một buổi tập |
Họ được huấn luyện trong điều kiện rất khắc nghiệt. Mùa hè thì tập vùi mình trong cát nóng, mùa đông giá lạnh thì phải ngâm mình dưới nước.
Nếu Đặc công nước là binh chủng “Đặc biệt tinh nhuệ”, thì những phân đội Đặc công “Người nhái”, mà các chiến sỹ thường nói vui, họ là lực lượng:
Đặc biệt của Đặc biệt tinh nhuệ, là những chiến sỹ được ưu tiên tuyển chọn trong toàn quân, tiêu chuẩn rất khắt khe như: phải tập ép trong buồng giảm áp, tương đương với độ sâu 40m, quay tiền đình... ở mùa tuyển quân năm 200, số chiến sỹ mà Đoàn M26 ĐCHQ tuyển được chỉ đếm trên đầu ngón tay.
Tôi được chứng kiến một buổi tập (đợt 2 của mùa huấn luyện năm 2007) của phân đội Đặc công “Người nhái” ở Đoàn M26 ĐCHQ.
Trang bị mang theo người gồm: ống ngậm thở, máy điểm hỏa, kíp nổ hẹn giờ, thuốc nổ, dao găm, lựu đạn, súng AK hoặc K54, la bàn chỉ hướng... và thiết bị lặn.
Phân đội gồm nhiều tổ, mỗi tổ từ 2 đến 3 người được liên kết bằng những sợi dây, hằng ngày họ phải bơi từ 10 đến 15 km, tập phát hiện mục tiêu ở độ xa từ 1.000 đến 1.500m...
Hiện nay, ngoài công tác huấn luyện sẵn sàng chiến đấu, cán bộ chiến sĩ Đặc công Đoàn M26 ĐCHQ cũng sẵn sàng tham gia các công tác cứu nạn trên sông và trên biển theo chỉ đạo của Bộ Quốc phòng.
Thánh Tổ
Liên Đoàn Người Nhái Hải Quân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa
Lịch sử Việt Nam đã cho Thế giới biết đến sự thảm bại của đoàn quân bách chiến Mông Cổ khi xua quân xâm lăng Việt Nam vào năm 1283. Với trận chiến oai hùng trên dòng sông Bạch Đằng do Thượng Quốc Công, Bình Bắc Đại Nguyên Soái Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn chỉ huy. Với chiến công hiển hách trên dòng lịch sử của dân tộc Việt Nam. Hải Quân việt Nam Cộng Hòa tôn vinh làm Thánh Tổ của quân chủng. Cũng trong trận chiến nầy, bên cạnh Hưng Đạo Đại Vương có hai vị Bộ Tướng tên là Yết Kiêu và Dã Tượng đã góp phần không nhỏ trong trận chiến thắng nầy.
Tương truyền, khi quân Mông Cổ đem thủy quân đến cửa sông Bạch Đằng thì dừng lại tập trung và chờ các chiến thuyền khác đến đầy đủ rồi mới tổng tấn công. Lợi dụng những đêm tối trời, hai vị Bộ Tướng Yết Kiêu và Dã Tượng đem toán quân sĩ giỏi về thủy tính (bơi lội) miệng ngậm ống trúc để thở, lặn đến đoàn chiến thuyền Mông Cổ, dùng thủy phủ (búa dùng dưới nước) đục thuyền, làm thuyền bị lủng đáy chìm xuống nước, quân Tàu bị chết đuối vô số. Quân Mông Cổ đêm đêm hoang mang hoảng sợ. Chúng nghi ngờ bị đục thuyền nên thả lưới chìm xuống đáy các chiến thuyền và chờ khi nghe có tiếng đục thuyền thì liền kéo lưới lên. Toán quân sĩ của hai vị Bộ Tướng vì bất ngờ nên một số bị bắt, trong đó có Tướng Yết Kiêu. Quân Tàu tra hỏi ông có phải là Yết Kiêu hay không? Ông trả lời ông chỉ là một lính thường của Yết Kiêu mà thôi!. Chờ cho quân canh chểnh mảng canh gác, ông ra hiệu cho thủ hạ cùng nhảy xuống nước lặn về doanh trại. Đã biết rõ kế hoạch của quân Tàu nên hai ông cho các toán đục thuyền mang theo dao bén để cắt lưới, và các chiến thuyền của quân Mông cổ lại tiếp tục bị chìm. Với chiến thuật nầy đả làm cho quân Tàu hoảng hốt mất ăn mất ngủ trước khi bi thảm bại trong trận chiến Bạch Đằng.
Hai ông đã góp công vào chiến sử oai hùng của dân tộc Việt Nam. Liên Đoàn Người Nhái HQVNCH hãnh diện tôn vinh hai vị Bộ Tướng YẾT KIÊU và DÃ TƯỢNG làm Thánh Tổ của Đơn vị. Với tinh thần trách nhiệm, danh dự phục vụ cho Tổ Quốc. Liên Đoàn Người Nhái quyết tâm noi gương tiền nhân, hy sinh đời mình khi đất nước lâm nguy, không màng danh lợi vì NGƯỜI NHÁI chấp nhận đồng nghĩa với VÔ DANH. Cũng như ngày xưa đoàn quân của hai Bộ Tướng đã xả thân đền nợ nước mà không màng đến lịch sử hay người đời sau có nhớ đến họ hay không?!