Trang chủ :: Tin tức - Sự kiện :: Website tiếng Việt lớn nhất Canada email: vietnamville@sympatico.ca :: Bản sắc Việt :: Văn hóa - Giải trí :: Khoa học kỹ thuật :: Góc thư giãn :: Web links :: Vietnam News in English :: Tài Chánh, Đầu Tư, Bảo Hiểm, Kinh Doanh, Phong Trào Thịnh Vượng :: Trang thơ- Hội Thi Nhân VN Quốc Tế - IAVP :: Liên hệ
     Các chuyên mục 

Tin tức - Sự kiện
» Tin quốc tế
» Tin Việt Nam
» Cộng đồng VN hải ngoại
» Cộng đồng VN tại Canada
» Khu phố VN Montréal
» Kinh tế Tài chánh
» Y Khoa, Sinh lý, Dinh Dưỡng
» Canh nông
» Thể thao - Võ thuật
» Rao vặt - Việc làm

Website tiếng Việt lớn nhất Canada email: vietnamville@sympatico.ca
» Cần mời nhiều thương gia VN từ khắp hoàn cầu để phát triễn khu phố VN Montréal

Bản sắc Việt
» Lịch sử - Văn hóa
» Kết bạn, tìm người
» Phụ Nữ, Thẩm Mỹ, Gia Chánh
» Cải thiện dân tộc
» Phong trào Thịnh Vượng, Kinh Doanh
» Du Lịch, Thắng Cảnh
» Du học, Di trú Canada,USA...
» Cứu trợ nhân đạo
» Gỡ rối tơ lòng
» Chat

Văn hóa - Giải trí
» Thơ & Ngâm Thơ
» Nhạc
» Truyện ngắn
» Học Anh Văn phương pháp mới Tân Văn
» TV VN và thế giới
» Tự học khiêu vũ bằng video
» Giáo dục

Khoa học kỹ thuật
» Website VN trên thế giói

Góc thư giãn
» Chuyện vui
» Chuyện lạ bốn phương
» Tử vi - Huyền Bí

Web links

Vietnam News in English
» Tự điển Dictionary
» OREC- Tố Chức Các Quốc Gia Xuất Cảng Gạo

Tài Chánh, Đầu Tư, Bảo Hiểm, Kinh Doanh, Phong Trào Thịnh Vượng

Trang thơ- Hội Thi Nhân VN Quốc Tế - IAVP



     Xem bài theo ngày 
Tháng Tư 2024
T2T3T4T5T6T7CN
1 2 3 4 5 6 7
8 9 10 11 12 13 14
15 16 17 18 19 20 21
22 23 24 25 26 27 28
29 30          
   

     Thống kê website 
 Trực tuyến: 4
 Lượt truy cập: 24831531

 
Vietnam News in English 17.04.2024 22:12
Dự luật Hành Trình Tự Do của TNS Ngô Thanh Hải đã được thông qua tại Thượng Viện Canada
07.12.2014 03:56

Một bản dự luật không rõ ràng tại Thượng viện khiến Việt Nam phẫn nộ và gây ra cuộc tranh cãi về ngoại giao với Canada

image

Joan Bryden/The Canadian Press

Lê Quốc Tuấn dịch Việt Ngữ

Một dự luật không rõ ràng của một thượng nghị sĩ đảng Bảo thủ đã gây ra một tranh cãi ngoại giao giữa Canada và Việt Nam.

Nhưng bất chấp cảnh báo cay cú của Việt Nam rằng dự luật sẽ có tác động xấu đến quan hệ giữa hai nước, chính phủ Harper vẫn kiên quyết xét duyệt dự luật này.

Dự luật, được bảo trợ bởi Thượng nghị sĩ Ngô Thanh Hải, nhìn nhận ngày 30 tháng 4 là một ngày quốc lễ để kỷ niệm cuộc di cư của người Việt tị nạn và việc họ được chấp nhận ở Canada sau sự sụp đổ của Sài Gòn vào tay lực lượng cộng sản Bắc Việt.

Thoạt tiên, dự luật được mang tên “Luật Tháng Tư Đen”, như ý nghĩa của ngày 30 tháng 4 từng được nhiều người biết đến, trong đó có ông Ngô, người đã chạy trốn khỏi Nam Việt Nam vào cuối cuộc chiến tranh Việt Nam.

Để ghi nhận lời phản đối om sòm của chính phủ Việt Nam, tên gọi dự luật này được đổi thành “Luật Hành trình đến Tự Do”

Nhưng chủ ý của điều luật vẫn không thay đổi.

“Đối với những người Canada gốc Việt và đông đảo cộng đồng người Việt hiện đang sinh sống ở nước ngoài, ngày 30 Tháng 4 được mô tả như một ngày Việt Nam rơi vào quyền lực của một chế độ cộng sản độc tài, áp bức, không đếm xỉa gì đến nhân quyền”, ông Ngô tuyên bố với Thượng viện khi mở màn cuộc tranh luận về dự luật này vào mùa xuân năm ngoái.

“Chúng tôi nhớ đến ngày 30 tháng 4 như một ngày đen tối bởi vì nó đại diện cho một ngày buồn đau mà chúng tôi đã bị mất nước, mất gia đình, bạn bè, tự do và quyền dân chủ của mình. Nó kỷ niệm một ngày mất mát và đau buồn.”

Vào tháng 10, khi dự luật được chuyển đến Ủy ban nhân quyền của Thượng viện để nghiên cứu, đại sứ Việt Nam tại Canada đã viết thư cho chủ tịch ủy ban để bày tỏ “các mối quan ngại nghiêm trọng” của chính phủ ông đối với dự luật, và yêu cầu được làm một nhân chứng trong cuộc tranh luận.

Đảng Bảo thủ đa số trong ủy ban đã từ chối không mời viên đại sứ, đề nghị ông ta hãy gửi một tờ trình bằng văn bản. Tuy nhiên, sau khi nghe từ chỉ ba nhân chứng, trong đó có ông Ngô, ủy ban đã kết thúc phần nghiên cứu dự luật, vốn sẽ phải được dịch sang tiếng Pháp để được đệ trình, trước khi có tờ trình của đại sứ (VN).

Trong tờ trình mà Ủy ban đã không xem xét đến, người Đại sứ (VN) cáo buộc ông Ngô đã soi mói quá khứ, vẽ lên một cái nhìn méo mó về lịch sử của đất nước và bỏ qua mối quan hệ song phương tích cực giữa VN với Canada trong 40 năm qua.

Tô Anh Dũng (ĐSVN tại Canada) đã viết, “Chính phủ Việt Nam không đồng ý với biểu hiện lọc lựa tiêu cực này và đã công khai cũng như kín đáo bày tỏ mối quan tâm.” Ông nhấn mạnh thêm rằng chính phủ của mình đã cử “nhiều đại diện đến các cấp cao nhất của chính phủ Canada và các nhà lãnh đạo Quốc hội để bày tỏ mối quan tâm nghiêm trọng về ngôn ngữ và chủ đích của dự luật này. “

“Nếu được thông qua, dự luật này sẽ có ảnh hưởng xấu đến quan hệ song phương ngày càng tăng giữa hai nước chúng ta. Mặc dù được tuyên bố là phi chính trị, dự luật này rõ ràng kích động hận thù, chia rẽ chứ không nhằm thống nhất dân tộc.”

Từ tháng Sáu, ông Phạm Bình Minh, phó thủ tướng và bộ trưởng ngoại giao Việt Nam đã viết thư cho John Baird, đối tác Canada của mình để nói lên mối quan tâm của ông.

“Mặc dù hiểu rằng về nguyên tắc, đây không phải là chính sách của Chính phủ Canada, nhưng chúng tôi tin rằng việc chấp thuận dự luật Thượng viện S-219 sẽ gửi một thông điệp sai lầm đến cộng đồng quốc tế và nhân dân Việt Nam,” ông viết.

Một phát ngôn viên của ông Baird nhấn mạnh rằng đây là “không phải là một dự luật của chính phủ” và rằng các thượng nghị sĩ và các nghị sĩ được tự do để giới thiệu những dự luật riêng (private member’s bill) của mình.

Trong một điện thư gửi Canadian Press, ông Adam Hodge cho biết, “Việt Nam là một đối tác mạnh mẽ và có giá trị trong các cuộc đàm phán đối tác xuyên Thái Bình Dương, một đất nước được Canada tập trung hỗ trợ phát triển trong Kế hoạch hành động về Thị trường Toàn Cầu và Chiến lược giáo dục quốc tế “.

“Canada và Việt Nam có các quyền lợi hỗ tương mạnh mẽ, hướng dẫn cho quan hệ song phương của chúng tôi.”

Bản dự luật được đưa đến biểu quyết cuối cùng trong Thượng viện vào ngày thứ năm nhưng lãnh đạo Đảng Tự do Thượng viện James Cowan đã đặt câu hỏi tại sao đảng cầm quyền lại phải vội vàng như vậy.

“(Tại Uỷ ban) chúng tôi chỉ được nghe một phía của câu chuyện từ những người ủng hộ dự luật,” Cowan nói với Thượng viện.

Vì bản dự luật thiếu vắng một cuộc “nghiên cứu nghiêm túc và cân bằng”, Cowan nói rằng ông không biết liệu nó có xứng đáng nhận được sự ủng hộ hay không.

“Đây không phải là phương cách thông qua pháp luật tại quốc gia này. Đây không phải là con đường đúng cho điều được mang tên là “hành trình đến tự do”, “ông nói.

Đảng Bảo thủ đa số đã cản trở nỗ lực trì hoãn cuộc tranh luận về dự luật, hoặc gửi trả về uỷ ban để nghiên cứu thêm của Cowan. Tuy nhiên, các thượng nghị sĩ tự do kiên quyết đòi trì hoãn việc biểu quyết dự luật cho đến tuần tới.

Dự luật này dường như đã chia rẽ cộng đồng người Việt của Canada. Mặc dù Uỷ ban đã nghe những lời lời khai ủng hộ từ Liên Hội Người Việt Canada và Canadian Immigration Historical Society, Uỷ ban cũng còn nhận được các lá thư từ một số bộ phận khác – bao gồm đại diện của Hội Hữu nghị Canada-Việt Nam và Hội đồng Thương mại Canada-Việt Nam – những người đã tuyên bố rằng điểu luật này sẽ tạo ra mối căng thẳng giữa những người Canada gốc Việt, trong đó có nhiều người đã đặt quá khứ lại sau lưng và hiện chỉ mong muốn một quan hệ hữu nghị với Việt Nam.

Bản cáo trạng số 5 – Tội ác của ĐCS VN và HCM: Chính sách trả thù man rợ

CCRD-Rusiareporter1

Trong giai đoạn từ sau năm 1975 đến nay, đảng cộng sản tiếp tục gây nên nhiều tội ác cho dân tộc Việt Nam chúng tôi. Cụ thể là sau năm 1975 khi cưỡng chiếm bất hợp pháp nước VNCH thì đảng cộng sản Việt Nam đã gây nên việc:

– Trả thù man rợ quân dân, cán chính một nước (VNCH) sau khi cưỡng chiếm nước này.

– Cướp tài sản của nhân dân Miền Nam thông qua chính sách đánh tư bản, đổi tiền và tịch thu tài sản.

– Đẩy hàng trăm ngàn người phải ra biển gây nên nạn thuyền nhân nổi tiếng và đau thương cho dân tộc Việt Nam.

– Đàn áp tôn giáo, cướp đất đai của nhân dân.

@image 1

Những người tù bị cộng sản hành hạ

I. Trả thù man rợ quân dân, cán chính VNCH:

Kính thưa quý vị !

Ngay sau khi cướp được VNCH thì việc đầu tiên là nhà cầm quyền cộng sản đã tiến hành chính sách nhà tù hà khắc để tiêu diệt những người làm việc cho chính quyền VNCH hoặc thân nhân của họ. Đây là một trong những tội ác không thể bỏ qua vì nó là một trong bốn nhóm tội ác được dự liệu tại Đạo Luật Rome (The Rome Statute) và thuộc quyền xét xử của Toà Án Hình Sự Quốc Tế (The International Criminal Court, viết tắt là ICC).

Trên thực tế , những ai là quân dân, cán chính Việt Nam cộng hòa sau khi bị bị cộng sản đưa vào tù đều thấy điều này. Ngoài ra, gia đình họ bị cộng sản bức hại đi lên vùng kinh tế mới, con em bị ghi lý lịch xấu, nhà của bị tịch thu là những nỗi thống khổ của những quân dân cán chính VNCH.

1.Cả nước Việt Nam là một trại tù khổng lồ :

Ngày 1-11-1978, Lê Duẩn và Phạm Văn Ðồng dẫn đầu một phái đoàn đảng và chính phủ sang Mạc Tư Khoa để cùng Brezhnev ký bản hiệp ước “hợp tác và hữu nghị”, theo đó hai nước sẽ liên minh với nhau cả về chính trị, kinh tế lẫn quân sự. Ðiều 6 của hiệp ước này nói rõ là nếu một trong hai nước bị tấn công, cả hai nước sẽ dùng những biện pháp thích hợp đối phó. Từ đó, Liên Xô đã hết lòng viện trợ cho Việt Nam. Số tiền viện trợ và cho vay lên tới nhiều tỷ Mỹ kim. Bù lại, Việt Nam sẽ để cho Liên Xô sử dụng hải cảng Cam Ranh và có thể Ðà Nẵng làm đầu cầu quân sự để kiềm chế Trung Hoa và đối đầu với hạm đội thứ 7 của Hoa Kỳ trong vùng Thái Bình Dương.

Trong cuộc găp với Brezhnev, ngoài báo cáo tình hính quan hệ với Trung cộng, CamPuchia thì Lê Duẩn đã báo cáo:

“Cơ bản tình hình trong nước chúng tôi đã ổn định do tôi và các đồng chí trong bộ chính trị không để cho ngụy quân, ngụy quyền có thể nổi lên bằng việc áp dụng mô hình nhà tù như thời đồng chí Xtalin. Chúng tôi chỉ lo lắng là Campuchia đang leo thang khủng bố…”( Trích: “Văn thư lưu trữ của đảng cộng sản Liên Xô trang 422”).

Vậy không ai khác mà chính Lê Duẩn cùng cộng sản Việt Nam đã đẩy quân dân cán chính VNCH vào lao tù khắc nghiệt. Và thực tế diễn ra thế nào, xin quý vị theo dõi những luận chứng dưới đây.

Thứ nhất, ngày Thứ Hai, 23/7/2007, Website của The Wall Street Journal, nhà báo James Taranto đã trích dẫn cuộc điều tra quy mô của nhật báo Orange County Register được phổ biến trong năm 2001 về “học tập cải tạo” tại Việt Nam và đã kết luận rằng:

“Ngay sau khi xâm chiếm VNCH, cộng sản đã đưa một triệu quân dân cán chính VNCH vào tù vô thời hạn – dưới cái nguỵ danh học tập cải tạo – trong ít nhất là 150 trại tù được thiết lập trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam kể cả những nơi rừng thiêng nước độc với khí hậu khắc nghiệt. Theo Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, đại đa số những người này đã bị giam cầm từ 3 tới 10 năm và có một số người đã bị giam giữ tới 17 năm. Nếu lấy con số trung bình là bẩy năm tù cho mỗi người, số năm tù của một triệu người là 7,000,000 năm.”

Đây là một tội ác hình sự mang tính lịch sử của đảng cộng sản cộng sản và những người đứng đầu đảng cộng sản. Nó xứng đáng được gửi tới quý vị như là một tội ác tiêu biểu của cộng sản Việt Nam. Cũng theo cuộc điều tra nói trên cho biết: “Cứ mỗi ba gia đình tại Miền Nam, có một gia đình có người phải đi tù cải tạo. Và trong số một triệu người tù kể trên, đã có 165,000 người chết vì bị hành hạ, tra tấn, đánh đập, bỏ đói, lao động kiệt sức, chết vì bệnh không được chữa trị, bị hành quyết… Cho tới nay, hài cốt của 165,000 nạn nhân này vẫn còn bị Việt Cộng chôn giấu trong rừng núi, không trả lại cho gia đình họ. Hiện nay chỉ có Việt Cộng mới biết rõ tên tuổi các nạn nhân cùng nơi chôn giấu hài cốt của họ. Đây là tội ác thủ tiêu mất tích người, một tội ác chống loài người đã và đang diễn ra tại Việt Nam suốt 35 năm nay mà thủ phạm là Lê Duẩn…”.

Thứ hai, trong tập tài liệu ghi bí số TN/QP-14 được lưu chiểu ngày 14/02/1977 tại cục lưu trữ Bộ Quốc Phòng Cộng sản ghi rõ như sau tại trang số 6: “Tổng số tù nhân tham gia học tập cải tạo để trở thành con người mới sau khi chế độ Sài Gòn đầu hàng là 1.321.506 người. Trừ những số trốn trại, bị chết trong lúc cải tạo và già yếu trả về với gia đình , bộ quốc phòng giao lại cho bộ nội vụ quản lý là 1.236.569 người”.

Qua tài liệu nói trên của nhà nước cộng sản nói lên điều gì? Đó là họ đã coi những quân dân cán chính Việt Nam cộng hòa là những “Tù nhân”. Trên thực tế, họ không phải là tù nhân vì theo như cộng sản tuyên truyền họ chỉ đi học tập chủ trương đường lối của “cách mạng”. Nhưng chính tài liệu của cộng sản đã coi họ là tù nhân.

Ngoài ra con số người mà đảng cộng sản cho biết chính là con số nói lên thực tế về trại tù khổng lồ mà cộng sản cùng Lê Duẩn bày ra nhằm trả thù quân dân cán chính VNCH.

Thứ ba, theo tài liệu của Viện Bảo Tàng Việt Nam tại San Jose ghi nhận số lượng tù cải tạo thực sự đều là tù chính trị như sau:

“Năm 1975 QLVNCH có 980.000 quân nhân gồm 1/10 cấp Tá và cấp Tướng tổng cộng 9.600, cấp úy là 80.000, còn lại là hạ sỹ quan và binh sĩ . Binh sĩ VNCH bị bắt đi cải tạo sau ngày 30 tháng 4, 1975.AFP/Getty Images – Cấp Tướng tại ngũ đến 30 tháng 4 năm 75 là 112; bị tù cải tạo: 32 vị, 80 tướng lãnh di tản và 1 số nhỏ không bị bắt giam. – Ðại tá có 600, bị tù 366. – Trung tá có 2.500, bị tù 1.700. – Thiếu tá có 6.500, bị tù 5.500. – Cấp úy có 80.000, bị tù 72.000. Trong số này bao gồm cả nữ quân nhân cũng như thành viên đảng phái và các cấp chính quyền. Ðây là con số ghi nhận được từ phía Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa, không có tài liệu của các trại giam phía cộng sản để đối chiếu; và không có con số chính xác tù cải tạo bị chết trong khi giam cầm”.

Như vậy, mặc dù do thất lạc khi rút bỏ Miền Nam, cộng với những thống kê những người chết do cộng sản đạo đày trong tù thì những con số mà Viện Bảo tàng cũng cho thấy cộng sản đã biến cả nước Việt Nam thành một địa ngục tù ngục trong chính sách trả thù man rợ của mình đối với những ai liên quan đến VNCH.

Thứ tư, để thừa nhận thêm về chính sách bỏ tù quân dân cán chính VNCH, cũng cần phải nhắc lại đảng cộng sản Việt Nam chủ trương theo chủ nghĩa cộng sản độc tài của Liên Xô và Trung Cộng. Hồ Chí Minh khi đem chủ nghĩa cộng sản vào Việt Nam chủ trương làm tay sai cho quốc tế thứ 3 (Xin xem thêm “Những sự thật không thể chối bỏ” phần 4,10,11,12) và làm con tốt thí trong tay sai Liên Xô. Những tư tưởng của Lê Nin đã được Hồ Chí Minh truyền thụ cho đàn em của mình trong việc trả thù những ai bất đồng chính kiến, trong trường hợp này là quân dân quán chính VNCH. Vì vậy nhìn lại Việt Nam sau năm 1975 như một trại tù khổng lồ của cộng sản không có gì là điều lạ lùng .

Hãy đọc cuốn “Lê Nin và Xã hội chủ nghĩa” xuất bản tại Liên Xô dày 820 trang, tại trang 233 có viết:

“Chiếm được một tỉnh, giải phóng được một nước thì dễ nhưng giữ yên được đất nước, địa phương ấy mới là khó. Muốn vậy sau khi chiếm được lãnh thổ, trước hết phải tập trung giam giữ lâu dài bọn phản động, thành phần làm việc cho chế độ cũ, chỉ khi nào ổn định được xã hội, nắm vững tình hình an ninh nội chính mới thả chúng về”.

Và cũng là sư phụ của Hồ Chí Minh cũng như Lê Duẩn sau này không quên nói thêm:

“Bọn này gồm những tên đầu đường xó chợ, đói khát rách rưới, Vô sản lưu manh rất nguy hiểm, chúng là kẻ thù số một của chuyên chính vô sản vì dễ bị bọn phản động mua chuộc, chúng cần bị giam giữ, loại trừ”(Trích cuốn “Lê Nin tuyển tập và Bản tuyên ngôn đảng cộng sản” có nói về Vô sản lưu manh.).

Qua đây quý vị có thể thấy, việc cộng sản Việt Nam học tập tư tưởng của Lê Nin nhằm trả thù man rợ quân dân cán chính Việt Nam cộng hòa cũng là điều hết sức thường tình đối với bản chất của cộng sản.

2. Trả thù man rợ :

Từ sau năm 1975 đến nay, nhà nước cộng sản Việt Nam, đã thi hành chính sách bắt những người là quân dân cán chính đi cải tại các trại tập trung. Thực chất là đi tù. Khi ra khỏi trại thành kẻ tứ cố vô thân. Rồi chính sách cải tạo công thương nghiệp làm cho nhiều người điêu đứng phải vượt biên… Rồi trấn áp, bắt bớ người vượt biên. Một số địa phương ven biển còn lợi dụng “bắt vượt biên” để trấn vàng, trấn của… Những thương phế binh VNCH thì bị đẩy ra lề đường.

Để nói lên thực tế này, ngay một tờ báo cộng sản đã phải thừa nhận sự thật này . Xin trích dẫn đến bạn đọc đoạn viết trên Tuần Vietnamnet:

“Anh tên Ngô Công Vò, quê xã Thủy Phù, Hương Thủy, Thừa Thiên – Huế, đi lính cho chế độ Sài Gòn năm 1970… So với nhiều anh em lính chế độ cũ, tôi còn may mắn hơn nhiều. Nhưng cuộc sống vẫn vất vả lắm. Anh em thương binh phía Bắc còn có chế độ, chứ chúng tôi chẳng có gì, làm việc quần quật mà chẳng đủ nuôi vợ con. Công việc của gia đình anh Vò chủ yếu làm ruộng, và ai thuê gì làm nấy. Công việc khá thường xuyên của anh là lấy đất thải san ủi nền nhà, và cả tháo gỡ những quả bom mìn còn sót lại trong vùng đem bán. Công việc vất vả, mạo hiểm đủ để tùng tiệm cuộc sống”. (Links của bài báo : http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/2012-04-27-hoa-hop-dan-toc-va-su-hoi-sinh-tu-noi-dau).

Còn đối với những người bị giam trong tù thì ra sao? Xin điểm lại một số chứng cứ để thấy cộng sản đã đối xử với quân dân cán chính Việt Nam cộng hòa như thế nào.

Trên thực tế,quân dân cán chính Việt Nam cộng hòa được thông báo: “Công chức trung ương từ Chánh sở, địa phương từ trưởng ty, phó quận cho tới Tổng thống; sĩ quan cảnh sát từ thiếu tá trở lên; các thành phần đảng phái, nhân viên tình báo ra trình diện học tập tại trường Gia Long…, mang theo quần áo, lương thực.. đủ dùng trong một tháng”.

Khoảng hơn một năm sau ngày nhập trại, bộ nội vụ bèn gom tù lại, ra Chính sách 12 điểm, tất cả học viên thành tù hết, án phạt ba năm… do Công an quản lý, đối xử hà khắc, bắt lao động cực nhọc, giai đoạn này cho ăn đói, mỗi bữa chỉ có vài củ khoai và một hai bát bo bo… rồi nhiều người bị đẩy ra những trại tù ở miền Bắc như: Hoàng Liên Sơn, Cổng Trời, Thanh Hóa, Hà Nam Ninh…

Những người bị giam ở trong nam thì còn đỡ khổ vì có gia đình thăm nuôi vả lại miền nam khá hơn miền Bắc, những người bị đưa ra Bắc vô cùng thê thảm, đói khát, lạnh lẽo, bệnh tật, làm việc quá sức.. nhiều người chết bỏ xác miền Bắc hoặc hóa ra thân tàn ma dại. Sĩ quan cấp thiếu úy, những người quá trình nhẹ hoặc có thân nhân là cán bộ bảo lãnh phần nhiều được về trong vòng ba năm, cấp trung úy hoặc ty sở trưởng, những người có liên hệ an ninh tình báo thường là được về sau 5 hay 6 năm… Trong thời gian đó, cộng sản hành hạ quân dân cán chính VNCH hết sức tàn tệ:

Thứ nhất, sau ngày 30/04/75, mọi người đều e ngại về một cuộc tàn sát trả thù đẫm máu vì đã có những lời đồn đại về hành động này. Nhưng cộng sản đã nghĩ ra một giải pháp thâm độc và tránh được sự lên án của Quốc tế đó là giam cầm và hành hạ quân dân cán chính VNCH. Quân cán chính Việt Nam Cộng Hòa đã được khuyến dụ trình diện để “học tập” ngắn hạn. Gọi là “tìm hiểu đường lối, chính sách của nhà nước và để gột bỏ tàn tích chống phá cách mạng khi xưa”. Chính quyền mới hứa là thời gian học tập chỉ vài tháng rồi ai nấy trở về với gia đình, phục vụ đất nước.

Nhưng thực ra đây là một sự tù đầy, tẩy não, hành xác. Có người vài ba năm. Rất nhiều người mươi năm. Và số người triền miên tù đầy gần hai chục năm cũng không ít. Lại còn một số đáng kể chết mất xác trong tù đầy hành hạ. Người sống sót trở về đã kể lại nhiều thảm cảnh mà họ phải gánh chịu trong thời gian đau khổ ấy. Những thảm cảnh mà nghe lại ai cũng rùng mình.

“Rồi mai đây, nếu vì may mắn nào đó, tôi được sống trong môi trường khác, tôi có bổn phận phải nhớ và nhớ thật kỹ tất cả những gì đã xẩy ra, đã khắc xâu vào tâm khảm tôi những chứng tích khổ đau, hờn hận!”, (Tạ Tỵ – Đáy Địa Ngục, trang 152.).

Người tù bất khuất Tạ Tỵ đã mô tả cảnh đói khát trong nhà tù cộng sản hết sức kinh khủng vì có lẽ bỏ cho đói khát là chính sách để kiềm chế, kiểm soát người tù. Nên bất cứ tù nhân nào cũng nói rất nhiều về sự hành xác này.

“Đã hơn hai tháng nay, chúng tôi không được ăn miếng thịt nào. Lao động mỗi ngày 8 tiếng, toàn việc nặng. Cơm không có, mỗi ngày lãnh hai chiếc bánh mì luộc, mỗi cái khoảng 200 gram và một nửa chiếc bánh buổi sáng 50gram, như vậy chúng tôi chỉ được ăn 450 gram chất bột với muối, không có chất béo, chất rau và chất đạm nào! Do đó, ai nấy đều gầy rộc hẳn, da khô khốc. Trên nguyên tắc theo giấy tờ chúng tôi được ăn 18 kí lô chất bột, 300 gram thịt mỗi tháng, nhưng thực tế chúng tôi chỉ được ăn 13 kí 500 chất bột”, (Đáy Địa Ngục -Tạ Tỵ trang 378- 379.).

Thứ hai, cũng cần nhắc qua cuốn Đại Học Máu của Hà Thúc Sinh để thấy sự tàn tệ của nhà tù cộng sản đối với quân dân cán chính VNCH như thế nào. Hình ảnh cánh binh cộng sản bắt phạt tù nhân “ngụy” được mô tả như sau: “Nói đến sùi bọt mép mà thấy nét mặt của mười thằng “ngụy” vẫn trơ thổ địa ra, thằng quản giáo cáu quá hét: Tao phạt chúng mày quỳ hai tiếng. Quỳ xuống! Bọn tù chỉ liếc nhìn nhau chẳng ai chịu quỳ. Thằng quản giáo đâu có chịu thua. Hắn móc súng bắn đến đùng một phát. Tránh voi chẳng xấu mặt nào, anh em lần lượt êm ái quỳ. Thằng quản giáo đứng chửi rủa một lúc rồi mới chịu bỏ đi…”, (Đại Học Máu – Hà Thúc Sinh, trang 116).

@image 1 (1)

Bên trong 1 trại tù của cộng sản đối với quân dân cán chính VNCH

Tác giả Hà Thúc Sinh cũng không quên mô tả tình trạng thiếu thuốc men và y tế của cộng sản đối xử với quân dân cán chính VNCH:

“Mặt đứa nào đứa nấy trông như những quả dưa bở chín rục, chân tay bụ bẫm vì bị phù do thiếu chất, cứ như những cái xác chết trôi ba ngày, đang xếp hàng dài trước bếp xin chút nước vo gạo về uống với hy vọng mong manh tí chất cám có thể cứu nổi căn bệnh phù thũng trầm kha…”,

Thứ ba, cũng có rất nhiều tác giả khác đã từng ngồi tù cộng sản bằng mỹ từ “học tập cải tạo” đã viết lên những khốn khổ trong tù cộng sản mà trong khuôn khổ bài này tôi không thể kể xiết. Xin điểm lại một số điểm chính để bạn đọc thấy rõ bản chất tàn bạo của cộng sản.

Ông Nguyễn Cao Quyền từng là một viên chức cao cấp trong chính quyền VNCH. Tốt nghiệp khóa 1 Trừ Bị Nam Định và khoá 51-53 trường Saint Cyr (Pháp), đỗ cử nhân luật và cao học tiến sĩ kinh tế Đại học Luật khoa Sài Gòn (1963), thẩm phán Tòa Án Quân Sự, Đại tá Chánh thẩm Tòa Án Đặc Biệt (1966-1968), Cố vấn ngoại giao tại Paris (1968-1974), Nha Thông Tin Báo Chí Bộ Ngoại Giao (1974-1975), Sau năm 1975, ông bị đưa đi tù cải tạo (1975-1985), rồi sau đó sang định cư tại Maryland, Hoa Kỳ từ năm 1990. Ông từng là Chủ tịch Khu Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị vùng Hoa Thịnh Đốn, nguyên Phó Chủ Tịch Ngoại Vụ Tổng Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị, nguyên Chủ Tịch Cộng Đồng VN vùng Hoa Thịnh Đốn (1996-1998).

Ông còn viết nhiều bài khảo luận về kinh tế, chính trị được phổ biến rộng rãi có viết:

@image 1 (2)

“Tại trại Thanh Cẩm, chế độ lao động còn khắt khe và nặng nhọc hơn ở trại Quảng Ninh. Dưới mũi súng canh gác của công an gốc dân tộc                Mường, chúng tôi phải đi rất xa để lấy cát làm nhà. Mỗi chuyến vừa đi vừa về vào khoảng 3 cây số. Mỗi ngày phải đi ba chuyến mà chỉ đươc          ăn có 4 chén cơm với vài cọng rau muống luộc thì sức nào chiụ nổi. Nếu đội nào không đi xe cát thì phải xe đá hoặc vào rừng đẵn luồng vác          về cho cán bộ làm nhà. Những người lao động ở trại cưa, trại mộc cũng không sung sướng gì hơn. Cả ngày quần nhau với những cây gỗ lớn,          cưa sẻ liên hồi hoặc đục đẽo luôn tay thi lấy năng lượng đâu mà bù đắp. Cuốc đất trồng khoai ngô mới là mệt vì đất núi bạt ngàn mà nhân            công thì thưa thớt. Ấy là chưa kể nhũng vụ gánh phân đi bón nặng gẫy sương sườn và chốc lở sương vai.Sức người có hạn còn nhu cầu của trại      thì mỗi ngày môt tăng thêm. Bên cạnh những cái chết vì tại nạn lao động như bị đá núi đè, lợp nhà té xuống đất hay bị cây luồng đâm thủng        bụng, dần dần người ta thấy xuất hiện những cái chết vì đói, vì thiểu lực. Sau hơn ba năm bị lưu đầy ra Bắc anh em tù nhân chôn nhau, vì            chết đói, đã chật cả một phần đồi sắn. Có một thời gian, trong tâm tư và trước mắt mọi người cái chết đã trở thành quen thuộc, không gây sợ        hãi và cũng không gây súc động. Tù nhân chờ đợi Thần Chết đến thăm như chờ đợi một sự giải thoát”.

Tác giả Nguyễn Chí Thiệp trong cuốn “trại kiên giam “ nổi tiếng của mình thì viết:

“Tiêu chuẩn ngừoi phạm kỷ luật mỗi tháng còn 9 kg lương thực ăn với nước muối, mỗi ngày hai bữa hai chén nhỏ xíu . Cơm mới bỏ vào miệng chưa kịp nhai cái lưỡi đã đưa cơm vào cổ. Đến bữa ăn phải kềm hãm cố nhai cho thật kỹ, vừa để cho đỡ buồn, cho qua thời giờ có việc làm. Khi nhai thức ăn, vừa phải nhai kỹ để thức ăn ít ỏi và quí báu được tiêu thật hết, khỏi phí phạm, giúp cơ thể bòn từng chút bổ dưỡng để thân xác chịu đựng con người được sống, nhai thật kỹ để chất thải ra thật ít, 5,7 ngày mới đại tiện một lần, vì đại tiểu tiện đều vào cái thùng đại liên để ngay bên cạnh bục nằm, đến lúc đầy tràn trật tự mới đổ đi, nên suốt ngày đêm phải nằm bên cạnh cái của nợ khai thúi đó”. (Nguyễn Chí Thiệp – Trại Tù Kiên Giam, trang 35).

Hoặc: “Hai chân tôi bị còng chéo để bức cung. Còng chéo hai chân bị đóng cứng chặt giữa hai cái còng hình chữ U và thanh sắt xuyên. Vì độ cao của thanh sắt giở hổng hai chân lên thành ra không thể nằm thẳng lưng, vì nằm như vậy thân mình căng ra hai chân bị siết chặt vào sắt đau buốt tận tủy óc. Người bị còng phải dùng hai khuỷu tay để chống hoặc cởi hết quần áo ra chêm ngang thắt lưng mới chịu được một thời gian. Chờ một vài ngày hai cổ chân gầy đi xoay được lật úp thì hai chân sẽ thẳng ra nhưng phải nằm sấp. Nhưng chỉ vài ngày chân đã sưng húp vì ban đêm bị lắc còng điểm danh” (Trại Tù Kiên Giam – Nguyễn Chí Thiện, tr 473).

Thứ tư, trên thực tế còn rất nhiều bằng chứng từ chính những người bị cộng sản trả thù man rợ. Nhưng còn phe cộng sản nói gì về điều này?

Xin giới thiệu cuốn sách “365 ngày ở Việt Nam” của nhóm công tác do Liên Xô chỉ đạo trong năm 1975 tại Việt Nam đã được giải mật năm 2008 (Đã giới thiệu ở “Những sự thật cần phải biết” phần 5) cho biết tại trang 75 như sau: “Những hình phạt của đảng cộng sản Việt Nam giành cho tù nhân chế độ Sài Gòn đã cho thấy những người anh em của chúng ta đã không quên phương pháp mà Xtalin áp dụng…”.

Cuốn sách này còn nói thêm tại trang 82: “Trong một điều kiện khó khăn và kỷ luật hà khắc, chính quyền mới tại nước Việt Nam thống nhất đã thanh lọc rất tốt tư tưởng của những người đi theo Mỹ…”.

Như vậy, ở đây ta có thể thấy, cuốn sách đã chỉ rõ cộng sản Việt Nam học tập phương pháp tàn bạo của kẻ giết người hàng loạt đó Xtalin. Và cuốn sách nhắc đến cum từ “Kỷ luật hà khắc” cho thấy bản chất bạo tàn của cộng sản trong đó có cộng sản Việt Nam áp dụng đối với quân dân cán chính VNCH.

Thứ năm, Hãy đọc thêm một trang hồi ký của blogger có tên Đề Lô Cao Cấp – một cựu quân nhân VNCH đi cải tạo để thấy sự hành hạ của cộng sản đối với quân dân cán chính VNCH như thế nào : “Chúng đã tỏ ra tàn-ác cực-cùng khi chúng bắt-buộc chúng tôi lao-động nặng-nhọc, nhưng chúng lại cho chúng tôi ăn không đủ no! Thông-thường một người Việt-Nam ăn 3 hoặc 4 chén cơm trong môt bữa ăn; nhưng người cộng-sản chỉ cho chúng tôi ăn một chén, đôi khi chỉ còn có 3/4 chén bo-bo, hoặc bắp cho mỗi bữa ăn. Nếu ai bị biệt-giam thì còn thê-thảm hơn nữa!! !! (Tôi nhớ khi bị biệt-giam; vì bữa ăn quá ít, nếu ăn nhanh sẽ bị mau hết, nên tôi đếm từng hột bắp bung một và nhai hột bắp ấy cho thật nhuyễn rồi mới nuốt để cho bữa ăn được kéo dài thêm ra. Hôm ấy tôi đã đếm được số bắp bung trong phần ăn của tôi là 72 hột). Chúng tôi không được ăn thịt hoặc cá mà chỉ có nước muối để ăn với bo-bo mà thôi. Riêng cá-nhân tôi hầu như không được ăn cơm khi còn bị nhốt ở trong trại cải-tạo; vì mỗi năm chúng tôi chỉ được ăn cơm vào những ngày sau đây: 3 ngày Tết Nguyên-Ðán, ngày Tết Tây, ngày 1-5, ngày 2-9 hàng năm, còn tất cả những ngày còn lại thì ăn khoai mì khô, khoai lang khô, bắp bung, bo-bo v..v…Tất cả chúng tôi đều bị đói triền-miên. Chúng tôi chịu-đựng cái đói từng giây một, chứ đừng nói từng phút một!! Chúng tôi không bao giờ biết no là gì khi ở trong trại tù. Ở trong tù tôi thường ước mơ được ăn một chén cơm trắng với nước mắm mà không được!!!”( Bạn đọc có thể đọc thêm tại đây: http://dlcc0.tripod.com/hanhha.htm ).

Một tháng sau khi xâm chiếm được Miền Nam, cộng sản áp dụng Nghị Quyết số 49-NQTVQH ngày 20-6-1961 và Thông Tư số 121-CP ngày 8-9-1961 của chúng để đưa một triệu quân dân, cán chính VNCH và những người quốc gia chống cộng đi “học tập cải tạo,” thưc chất là đưa đi tù để trả thù. Cộng sản ước tính rằng tại Miền Nam có 1,300,000 người đã tham gia vào chính quyền Quốc Gia và Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, và mỗi gia đình có 5 người, như vậy là có 6,500,000 người có nợ máu với chúng. Những người nào phục vụ trong quân đội hay trong chính quyền thì phải đi “cải tạo” và những thành phần còn lại trong gia đình thì phải đi những “khu kinh tế mới;” cũng là một cách đưa đi đầy ải tại những vùng rừng núi xa xôi, hẻo lánh. Đây là một kế hoạch man rợ và thâm độc đã được nghiên cứu và tính toán rất kỹ của của cộng sản.

Trong các trại tù, người tù phải sản xuất lương thực như trồng sắn, trồng ngô, trồng khoai, trồng rau…để tự nuôi mình; ngoài ra, còn phải sản xuất hàng hoá, sản phẩm để bán ra ngoài thị trường. Tại các trại tù trong vùng rừng núi Hoàng Liên Sơn, người tù phải đốn gỗ, cưa xẻ, chặt giang, chặt nứa, chặt vầu… để trại tù mang đi bán. Tai trại tù Hà Sơn Bình có những đội cưa xẻ, đội mộc, đội gạch để sản xuất bàn, ghế, giường, tủ và gạch để bán. Tại trại tù Z30D, Hàm Tân, người tù phải trồng mía, sản xuất đường; mỗi tháng bán hàng tấn đường ra ngoài thị trường… Cộng sản bắt người tù phải làm công việc như người nô lệ thời trung cổ khi phe thắng trận bắt người bên phe thua trận phải làm nô lệ lao động thay vì mang đi giết. Đây là sự vi phạm nhân quyền một cách man rợ của thời trung cổ và là một Tội Ác chống Loài Người.

II. Cướp bóc và đẩy hàng triệu thuyền nhân ra biển:

Kính thưa quý vị !

Ngay sau khi cướp được Miền Nam Việt Nam, cùng với chinh sách cải tạo man rợ, chính quyền cộng sản còn tiến hành việc Cướp tài sản của nhân dân Miền Nam thông qua chính sách đánh tư bản, đổi tiền và tịch thu tài sản. Đẩy hàng trăm ngàn người phải ra biển gây nên nạn thuyền nhân nổi tiếng và đau thương cho dân tộc Việt Nam.

Cướp đoạt tài sản: 

Để cướp đoạt tài sản và tiền của thì đảng cộng sản đã tiến hành chính sách đánh tư bản, đổi tiền và tịch thu tài sản của nhân dân dưới mỹ từ “đánh gian thương”, “tiểu tư sản”. Hậu quả đó là hàng triệu người bị cướp nhà giao cho cán bộ, bị mất cơ nghiệp và bị đẩy đi kinh tế mới. Kết quả X-2 và X-3, với “công lao to lớn” của Đỗ Mười, Mai Chí Thọ ..thu được khoảng hơn 4.000 kg vàng, gần 1.200.000 đô la, và một khối lượng hàng hóa không thống kê hết. Từ chiếc xe hơi, TiVi, tủ lạnh, đến bịch bột giặt, quả trứng gà đều khê khai và tịch thu chất trong các kho, để rồi không cánh mà bay, hoặc biến thảnh phế thải. Xin quý vị theo dõi những chứng cứ dưới đây để thấy được sự thật này.

Thứ nhất, Trong cuốn sách “Bên thắng cuộc” của tác giả Huy Đức có đề cập đên chiến dịch cướp bóc này . Tác giả Huy Đức đã viết ở Chương iii – Đánh tư sản như sau :” Sau khi hàng trăm ngàn binh lính đã được “học tập”, đã nhận thấy “tội lỗi” của mình, còn các sỹ quan thì đã bị giữ trong các trại cải tạo, Sài Gòn lại náo động bởi chiến dịch đánh tư sản mại bản. Theo nhận thức của những người cộng sản, đánh đổ giai cấp tư sản là bước đi tất yếu, là nhiệm vụ của “cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân”. Chưa đầy ba năm sau khi chủ nghĩa xã hội được áp dụng ở miền Nam, các nhà doanh nghiệp, với tên gọi mới là “tư sản”, đã phải trải qua hai lần bị “đánh”.

“Chiến dịch X-2”

Vào lúc 7 giờ 30 phút sáng ngày 10-9-1975, Ủy ban Quân quản Thành phố Sài Gòn họp báo, đưa ra “Bản Tuyên bố của Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà Miền Nam Việt Nam”, ra lệnh “bắt giữ một số tư sản mại bản có chứng cứ đầu cơ tích trữ, phá rối thị trường: Mã Hỷ, vua lúa gạo; Lưu Tú Dân, lũng đoạn vải vóc; Bùi Văn Lự, nhập cảng, đầu cơ phụ tùng xe máy; Hoàng Kim Quy, thầu cung cấp kẽm gai cho quân đội Mỹ; Trần Thiện Tứ, độc quyền xuất cảng cà phê…”117. Hơn bảy giờ trước đó, phần lớn các đối tượng nằm trong danh sách sáu mươi tên đánh đợt đầu đã bị bắt.

Rồi cũng chính Huy Đức – một cựu nhà báo cộng sản cho biết thêm:

“Tối 10-9-1975, “tin chiến thắng” liên tục được báo về “Đại bản doanh” của Trung ương Cục đóng tại Dinh Độc Lập. Con số bị bắt cho đến khi ấy vẫn tăng lên. Các đoàn đưa ra những con số chi tiết: hàng chục triệu tiền mặt, hàng chục ký vàng, cả “kho” kim cương, hàng vạn mét vải và cả một cơ sở chăn nuôi gồm “7.000 con gà, thu hoạch 4.000 trứng mỗi ngày”120 ở Thủ Đức. Một nhà tư sản đang nằm viện bị yêu cầu kiểm tra xem ốm thật hay cáo bệnh, trong khi đó con trai ông ta bị bắt để buộc phải khai ra nơi cất giấu tiền, vàng. Do tin tức bị lọt ra, một số nhà tư sản đã kịp cao chạy xa bay, có người bị bắt khi đang chuẩn bị trốn.”.

Ngòài bắt bớ ra , nhà cầm quyền cộng sản còn tiến hành chính sách đổi tiền để vơ vét tiền vào túi dưới hình thức : cướp trắng. Tác giả Huy Đức mô tả sự kiện đổi tiển như sau:

“Sau “Chiến dịch X-2”, Thành uỷ nhận định: “Bọn tư sản mại bản bị cô lập rất cao, chúng đã mất hết chỗ dựa về mặt quân sự và chính trị. Lực lượng kinh tế của chúng đã bị sứt mẻ và đang bị tan vỡ dưới sự tiến công của ta”122. Nhằm “giáng tiếp những đòn mới vào giai cấp tư sản”, ngày 22 và 23-9-75, đồng tiền cũ của chế độ Sài Gòn đã được thay thế bởi đồng tiền mới.

Đổi tiền cũng được coi là “chiến dịch” với mật danh “X-3”. Ba yêu cầu mà Trung ương Cục đưa ra cho Chiến dịch X-3 gồm: “Thiết lập một chế độ tiền tệ mới; ngăn chặn giai cấp tư sản sử dụng tiền mặt để thao túng thị trường, đồng thời tước đoạt bớt phương tiện hoạt động của bọn gián điệp, tình báo; đẩy lùi lạm phát”123. Với nhận thức tiền còn là “phương tiện hoạt động của bọn gián điệp, tình báo”, Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà Miền Nam Việt Nam chỉ cho đổi một số tiền hạn chế.

Mỗi hộ gia đình được đổi tối đa 100.000 đồng tiền “Chánh quyền Sài Gòn cũ”- 500 đồng tiền “Chánh quyền Sài Gòn cũ” đổi được một đồng tiền mới Ngân hàng Việt Nam. Cán bộ công nhân viên chức trong các tổ chức tập thể được đổi mỗi người 15.000; hộ kinh doanh tiểu công nghệ, thương nghiệp, vận tải được đổi 100.000 đồng; tổ chức kinh doanh lớn được đổi từ 100.000 đến 500.000 đồng; khách vãng lai, mỗi người được đổi 20.000, số còn lại nộp cho ban đổi tiền, lấy biên lai về địa phương giải quyết. Các hộ kinh doanh và hộ gia đình nếu có nhiều tiền hơn mức được đổi ngay thì phần còn lại sẽ quy đổi thành tiền mới, ghi vào sổ tiết kiệm, hoặc sổ tiền gửi tại Ngân hàng Quốc gia Việt Nam.”.

Song song với đánh tư sản và đổi tiền, chính quyền cộng sản còn áp dụng biện pháp “Cải tạo công thương nghiệp tư doanh” mà tác giả Huy Đức Miêu tả như sau:

“Nếu như đối tượng của Cách mạng chỉ có chín mươi hai nhà tư sản giàu có nhất miền Nam thì sau năm 1975, nền kinh tế vẫn còn cơ hội để hồi sinh. Nhưng, hai năm rưỡi sau, “giai cấp tư sản” lại bị “đánh” trong một chiến dịch mới được gọi là “Cải tạo Công Thương nghiệp Tư doanh”, một chiến dịch được ông Đỗ Mười triển khai với “bàn tay sắt”. ( Quý vị có thể tìm hiểu trong cuốn “Bên thắng cuộc” của Huy Đức hoặc xem tại links sau đây:

http://chauxuannguyen.org/2012/12/15/ben-thang-cuoc-phan-i-mien-nam-chuong-iii-danh-tu-san-huy-duc/ ).

Thứ hai, Trong lịch sử thì sự kiện vơ vét tiền của nhân dân sau năm 1975 ở Việt Nam không phải là lần đầu tiên. Lần đầu tiên phải là cuộc cải cách ruộng đất vì theo Thống kê chính thức của nhà nước Việt Nam được đăng trong cuốn “Lịch sử kinh tế Việt Nam” (tập hai) cho biết là đã có 172.008 người bị quy vào thành phần địa chủ và phú nông (trong đó có 123.266 người bị quy sai, hơn 70%, tức là bị oan). Lần thứ hai này, đánh “tư sản mại bản”, tịch thu tài sản hàng triệu người, đuổi người dân đi “kinh tế mới”, vào “hợp tác xã”. Nền kinh tế bị thiệt hại kinh hoàng, TRỰC TIẾP gây ra nạn THUYỀN NHÂN chưa từng có trong lịch sử nhân loại, từ 100 ngàn đến 300 ngàn người bỏ mạng ngoài biển khơi.

Trên báo tuổi trẻ o­nline của nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam có bài viết về một người từng tham gia chiến dịch cướp bóc của quần chúng nhân dân Miền Nam. Bài viết có đoạn trích như sau:
“Sau tháng 4-1975, nhà báo Đinh Phong cùng nhóm phóng viên truyền hình túc trực ngày đêm theo những tổ công tác làm công việc “kê biên tài sản” của những nhà tư sản Sài Gòn ở chợ Bến Thành, chợ Tạ Thu Thâu… Đó là một thời điểm khó quên nhưng ai cũng muốn quên. Ông Đinh Phong (ủy viên Ủy ban MTTQ VN TP.HCM, nguyên phó giám đốc Đài truyền hình TP.HCM) hồi tưởng về những ngày ông và nhiều đồng nghiệp được ban tuyên huấn giao những nhiệm vụ đặc biệt nhưng bí mật đến phút cuối cùng. Ngay cả cái tên của những chiến dịch này cũng được mã hóa thành X1, X2… Những tổ công tác mật được gấp rút thành lập, bắt đầu rà soát, lên danh sách những hộ gia đình kinh doanh, những gia đình giàu có phải “cải tạo tư sản”. Nguyên tắc hàng đầu của chiến dịch này là bí mật. Những nhà tư sản chỉ bàng hoàng nhận biết những gì xảy ra khi cửa mở và tổ công tác đặc biệt bất ngờ có mặt, đọc quyết định “kê biên tài sản”.

Qúy vị có thể theo dõi ở links sau: http://tuoitre.vn/Chinh-tri-Xa-hoi/Phong-su-Ky-su/132736/ke-bien-tai-san.html#ad-image-0

Thứ ba, Cũng nói về con số thống kê “thành tích” cướp bóc của nhân dân Miền Nam, Trong cuốn sách “Thông tin lịch sử của TP.HCM” của ủy ban nhân dân TPHCM có cho biết :
” Cho đến ngày giải phóng 1975, Sài Gòn đã có một cơ sở vật chất, kinh tế kỹ thuật lớn nhất miền Nam, nơi tập trung hơn 80% năng lực sản xuất công nghiệp cả miền Nam. Nơi đây tập trung hơn 38.000 cơ sở công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp lớn nhỏ, trong đó có 766 công ty và 8.548 cơ sở công nghiệp tư nhân. Để công hữu hóa tư liệu sản xuất và đưa công nhân lao động làm chủ nhà máy, xí nghiệp, sau năm 1975 chính quyền cách mạng đã tiến hành vận động hai đợt cải tạo công thương nghiệp. Kết quả là đã quốc hữu hóa tài sản của 171 tư sản mại bản, 59 tư sản thương nghiệp cỡ lớn…”.

Trên thực tế ở Việt Nam thì việc “quốc hữu hóa” chính là việc nhà cầm quyền cộng sản cướp của dân rồi đem làm tài sản riêng cho đảng viên và các quan chức lãnh đạo thụ hưởng.

Quý vị cũng có thể xem tại links: http://tuoitre.vn/Chinh-tri-Xa-hoi/Phong-su-Ky-su/132736/ke-bien-tai-san.html#ad-image-0

Thứ tư, Chính Mai Chí Thọ trong 1 bài phỏng vấn đăng trên tờ báo điện tử cộng sản Vietbao.vn đã thừa nhận những hành động cướp bóc của mình một cách công khai:

“Trầm ngâm một lát, bác Tám Cao (Mai Chí Thọ) đúc kết: “Sau chiến thắng 30/4/1975 với chủ trương “Tiến nhanh, tiến mạnh lên chủ nghĩa xã hội”, ngay sau khi giải phóng, TW đã giao nhiệm vụ cho TP. HCM phải bắt tay ngay vào chiến dịch mang bí số X1 và X2 với nội dung “Cải tạo kinh tế tư bản chủ nghĩa” vẫn được quen gọi là “Đánh tư sản mại bản”.Chiến dịch X1, thì tạm được bởi chúng ta thực hiện cải tạo những tư sản có liên quan tới đế quốc, dù trong số họ không ít người chỉ thuần túy “làm kinh tế”.

Rồi cũng chính Mai Chí Thọ thừa nhận:

“Nhưng đến nửa chừng rà soát lại gần 2.000 “đối tượng X2”, thì chỉ đúng có… 3 đối tượng ! Chủ trương duy ý chí này đã làm sa sút ghê gớm, biến dạng diện mạo cũng như nội lực của thành phố, xóa đi hết những ưu thế, cơ sở vật chất sẵn có của “Hòn ngọc Viễn Đông”…

Không khí cải tạo ồ ạt, tịch thu, tịch biên tài sản của các đối tượng “X1, X2”, đem về đổ dồn, chất đống đầy các kho không chứa xuể, phải tấp táp đâu đó, sau một thời gian ngắn, những tài sản này phần thì biến mất, số còn lại hư hỏng trở thành một đống đổ nát khổng lồ…

Từ một thành phố hưởng thụ, một Trung tâm công nghiệp lớn nhất, vậy mà chỉ sau mấy năm khi “Chiến dịch X1, X2” đi qua, toàn bộ nền sản xuất công nghiệp của thành phố bị tê liệt tới mức cạn cùng: Nguyên vật liệu không còn, viện trợ từ các phía bị cắt đứt, cơ sở vật chất xuống cấp nhanh chóng, máy móc phương tiện “đắp chiếu” ngủ triền miên hết năm này sang năm khác.Nền kinh tế của thành phố như thoi thóp, lạm phát gia tăng chóng mặt từ 15,3% đến 31% vào năm 1979; từ 20% năm 1980 đến 40% năm 1981, cộng với thiên tai, mất mùa, tăng viện cho cuộc chiến phía Tây Nam, số người thất nghiệp ngày càng gia tăng.Rồi dịch bệnh tràn lan, phương tiện, thuốc men thiếu thốn đủ thứ khiến cho đời sống người dân ngày càng lâm vào cảnh cùng cực. Có nhiều người không chịu đựng nổi phải vượt biên.”

Qua những gì chính Mai Chí Thọ lúc đó là giám đốc công an Sài Gòn thừa nhận đã cho thấy hậu quả khủng khiếp mà cộng sản gây ra cho nhân dân Việt Nam. Đây là tội ác không thể tha thứ.

@image

Đánh tư sản năm 1976

Nạn thuyền nhân:

Kính thưa quý vị !

Chính vì cướp sạch kinh tế, nhà cửa và đầy đọa quân dân cán chính VNCH mà đảng cộng sản Việt Nam đã đẩy người dân Miền Nam tới nạn “thuyền nhân “ để kiếm tìm sự sống mới. Trên thực tế không chỉ có X1 và X3 đánh kinh tế, nhà cầm quyền cộng sản còn dùng X2 để đánh văn nghệ sỹ không theo cộng sản . Chính vì thế toàn Miền Nam là một trại tù khổng lồ , người dân đã phải chấp nhận đánh đổi mạng sống trên những con thuyền lênh đênh ngoài khơi để trốn chạy cộng sản.

Quý vị có thể tìm hiểu về chiến dịch X2 qua bài viết của một người trong cuộc như sau :

“Tôi bị bắt ngày 5 tháng 4 năm 1976, trong cái trò bắt người mà cộng sản gọi là “chiến dịch X2 đánh Văn Nghệ Sĩ phản động”. Chiến dịch X1 trước đó “đánh “ tư sản mại bản (tức những nhà tỷ phú người Việt và người Việt gốc Hoa, đa số ở Chợ Lớn). Có 3 nhà tỷ phú người Việt bị bắt là cụ Hoàng Kim Quy (cựu Thượng Nghị Sĩ đệ nhị VNCH) , hai anh em vua tầu thủy Phạm Quang Khai và Phạm Quang Hoa. Trước và sau tôi bị bắt vài ngày có hơn trăm người gồm đủ bộ môn văn nghệ Miền Nam (Văn, Thơ, Báo chí, Nhạc, Kịch, đạo diễn điện ảnh, đạo diễn Cải lương có đôi chút tên tuổi). Đa số giam ở T20 ( số 4 Phan Đăng Lưu bên hông chợ Bà Chiểu, Gia Định) vài người đi khám Chí Hòa. Khoảng mười tháng sau một số lớn được tha về, chỉ còn mươi người bị quy kết tội “có nợ máu nhân dân” và “chống cộng ở thượng tầng kiến trúc” bị giữ lại. Đây là những “tội” có thể đưa tới tử hình. Sau hai năm tra vấn hỏi cung xong, họ đưa bọn tôi lên trại Gia Trung ( xứ sương mù Pleiku) nằm trong khu rừng già, nghe nói trước đây là mật khu của Việt cộng, để lao động khổ sai.” Trích bài viết:” NHỮNG NGÀY THÁNG TÙ ĐẦY KHÔNG THỂ QUÊN” của tác giả Thanh Thương Hoàng.

Thậm chí khi tác giả này đã ra tù và có chính sách HO thì cũng bị nhà cầm quyền cộng sản gây khó dễ:

“Nhưng tất cả đều vô vọng. Lần nào cũng vậy, hai lần, tôi “ôm” hồ sơ xin xuất cảnh tới Sở Ngoại Vụ đường Nguyễn Du đều được các viên chức hữu quyền (công an CS) trả lời dứt khoát: “Nhà Nước không có chính sách cho anh xuất cảnh. Bọn lính cũ không có súng ống đâu còn đánh được chúng tôi nhưng với bọn anh chỉ một cây viết vẫn có thể chống phá chúng tôi như các anh đã làm trước đây. Anh nên biết bên đó bọn báo chí phản động nhiều như nấm”. Thế là con đường sống bị triệt. Hết hy vọng, hết chờ mong. Tôi đành sống kiếp mạt rệp – một thứ công dân hạng bét – ngay trên quê hương đất nước mình.”

( Links bài viết: http://khungtroisaomai.com/forums/viewtopic.php?f=9&t=7699).

Nạn thuyền nhân đã bắt đầu sau khi nhà cầm quyền cộng sản trả thù quân dân cán chính VNCH và cướp đi nguồn sống của nhân dân Miền Nam. Xin quý vị có thể đọc những tài liệu sau đây để thấy rõ điều đó .

Thứ nhất, Trên VOA Việt Ngữ đã có bài viết thống kê về con số thuyền nhân và những người không may mắn như sau:

“Sau biến cố 30 tháng 4 năm 1975 – và trong cả hai thập niên kế tiếp – hàng triệu người Việt đã vượt biển, vượt biên tìm tự do. Ngày nay, người ta thường chú ý đến tập thể cựu thuyền nhân, ‘bộ nhân’ đã sống sót và định cư thành công ở Bắc Mỹ, Châu Âu và Châu Úc. Cũng trong hai thập niên đen tối ấy, trên 300 ngàn thuyền nhân Việt Nam đã tử nạn trong rừng sâu, trên biển cả và tại các trại tị nạn ở Đông Nam Á. Rải rác khắp nơi tại các trại tị nạn cũ – từ Thái Lan, Malaysia đến Indonesia và Philippines, hàng ngàn ngôi mộ thuyền nhân đã bị bỏ quên – cho đến khi tổ chức Văn khố Thuyền nhân Việt Nam phát động chương trình thăm viếng và trùng tu mộ phần cho những đồng bào xấu số.”

@image 1 (3)

Khu mộ tưởng niệm các thuyền nhân tị nạn ở Galang.

Đây là những con số biết nói cho thấy cộng sản là loài thú dữ đã gây nên cảnh tang thương cho dân tộc Việt Nam chúng tôi. Chúng tôi kính mong quý vị xem xét và làm rõ tội ác tày trời này của cộng sản Việt Nam.

Thứ hai, Trong một tập tài liệu ấn hành vào năm 2000, mang tựa đề “The State of the World’s Refugees 2000, 50 years of Humanitarian Action,” viết về tình trạng tị nạn thế giới, để đánh dấu 50 năm hoạt động nhân đạo của Liên Hiệp Quốc, Bà Sadako Ogata, Cao Ủy Trưởng Tị Nạn Liên Hiệp Quốc, đã nói về lòng can trường của hàng triệu người tị nạn và lánh nạn trên thế giới đã mất tất cả, ngoại trừ niềm hy vọng, và đã vượt qua biết bao thử thách và chông gai để đi tìm con đường sống. Bà Ogata đã tuyên dương những người này là “Những người sống sót vĩ đại của Thế Kỷ 20”.

Cuốn sách cho biết: “Ngay từ cuối năm 1975, những đợt người tị nạn Việt Nam đã bắt đầu đến lánh nạn tại các nước lân bang. Vào những ngày đó, Thái Lan đã đón nhận 5,000 người tỵ nạn từ Việt Nam qua, tại Hồng Kông cũng đã có 4,000 tị nạn, Tân Gia Ba 1,800 người, và có khoảng 1,250 người cũng đã đến Phi Luật Tân. Vào tháng 7 năm 1976, khi chế độ Hà Nội loại trừ bộ máy quản chế miền Nam của Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam để thực hiện việc thống nhất hai miền, cưỡng chế người dân đi vùng kinh tế mới, và tập trung trên một triệu người miền Nam vào các trại tù cải tạo, những làn sóng di tản bằng đường biển bắt đầu gia tăng. Và đến cuối năm 1977, đã có trên 15,000 người Việt sang tị nạn tại các nước trong vùng Đông Nam Á. Cho đến năm 1978, khi nhà cầm quyền Cộng Sản phát động chính sách cải tạo tư sản, và tiếp theo đó là việc xua quân xâm chiếm Cam Bốt, và phải đương đầu với cuộc chiến biên giới với Trung Quốc, làn sóng tị nạn bằng đường biển đã tăng lên gấp bốn lần, với đa số người ra đi thuộc khối người Việt gốc Hoa, để sau đó được đưa sang định cư tại các tỉnh phía Nam Trung Quốc.

Vào cuối năm 1978, đã có 62,000 thuyền nhân người Việt tị nạn tại các nước Đông-Nam Á. Riêng trong tháng 6 năm 1979, đã có trên 54,000 thuyền nhân Việt Nam đến tị nạn tại các nước nói trên. Những làn sóng tị nạn này đã khiến cho các nước trong khối Đông Nam Á, như Mã Lai Á, Thái Lan, Phi Luật Tân, Tân Gia Ba và Nam Dương tuyên bố không nhận thêm người tị nạn từ Việt Nam, khiến cho những đợt thuyền nhân đến sau đã bị xua đuổi cấm không cho lên bờ. Cũng kể từ đó, con số thuyền nhân tử vong trên biển cả cũng đã gia tăng.

Sau những cuộc hành trình hãi hùng lênh đênh trên đại dương, một số thuyền nhân cũng đã đến được bến bờ tạm dụng. Những lớp người này đã đem cho thế giới bên ngoài những mẫu chuyện về người cha, người mẹ, đã phải chia nhau những hạt cơm rơi từ miệng những đứa con; đến chuyện chia nhau từng giọt nước quý hơn vàng được vắt ra từ miếng vải thấm mưa, để đánh lừa những cơn đói khát triền miên. Hay là những chuyện thương tâm về người chết đã cứu được người sống với thịt máu của chính mình. Hoặc nữa là những chuyện nói nhỏ, kể về những trường hợp phải đương đầu với hải tặc. Ngoài những mối đe dọa do sự đầy đọa của con người đối với con người, những thuyền nhân này còn phải đương đầu với những cơn thịnh nộ của thiên nhiên. Những cơn phong ba bão táp đã khiến cho không biết bao nhiêu thuyền nhân làm mồi cho biển cả. Không ai dám phỏng đoán với mỗi người có cơ may đặt chân lên bến bờ tự do, đã có bao nhiêu người hy sinh trên đại dương.

Cuối cùng, làn sóng người tị nạn Việt Nam bằng đường biển đã viết lê thiên bi sử của thuyền nhân, và những câu chuyện hãi hùng của các cuộc vượt biển của người tị nạn Việt Nam đã đánh động được lương tâm thế giới. Vào tháng Ba 1979, chương trình Ra Đi Có Trật Tự ra đời để cố gắng ngăn chặn những làn sóng vượt biển. Ngoài ra, cũng vào thời gian này, các chương trình cứu người vượt biển đã được một số tổ chức thiện nguyện quốc tế phát động hai chiếc tầu cứu vớt thuyền nhân ngoài biển là Anamur do một tổ chức từ thiện Đức Quốc vận động vào năm 1979 L’Ile de Lumiere của tổ chức từ thiện Pháp Medecins du Monde điều hành vào năm 1980 đã cứu mạng được nhiều thuyền nhân Việt Nam lênh đênh ngoài biển cả trong khoảng thời gian từ 1979 cho đến 1990.”

@image 1 (4)

  Thứ ba, Theo cuốn video tài liệu của Ủy Ban Cứu Nguy Người Vượt Biển về con tầu J. Charcot, sau 20 ngày tìm vớt ngoài khơi Việt Nam:

“tầu đã vớt được 520 người, thành phần tuổi tác như sau:Từ 14 đến 30 tuổi có 269 người, tức 51.73%. Học trò có 224 em, gồm 136 nam, 88 nữ,   chiếm 43.08%. Người trên 50 tuổi chỉ có 11 người, chiếm 2.11%. Người có nghề nghiệp là 218 người, chiếm 41.92% gồm 154 đàn ông và chỉ có     64 đàn bà …Với thành phần trẻ chiếm đa số và nhất là giới học trò đã làm cho Thế giới rúng động ở mức độ khinh hoàng về cuộc ra đi của              người Việt. Hàng trăm ký giả, các nhà xã hội và tôn giáo thiện nguyện đổ xô về Đông Nam Á quan sát thảm nạn thuyền nhân khi những chiếc      tầu chở hàng ngàn thuyền nhân đổ bộ lên đảo hoang Pulau Bidong, Galang..”.

   Thứ tư , Trên trang chính của Văn Khố Thuyền Nhân Việt Nam có đăng tả lại một trong những thảm kịch của thuyền nhân Việt Nam chạy             trốn cộng sản đã mô tả:

“Sáng 1-12-1978 , bão lớn kéo đến. Chẳng bao lâu sau tầu chìm. 170 người thiệt mạng. 150 người sống sót.123 thi hài được chon chồng chất 4 lớp lên nhau trong nghĩa trang Cherang Ruku.46 thi hài khác được mai tang 3 ngày sau đó tại nghĩa trang Balai Bachok, cách Cherang Ruku 30km về hướng Bắc”.

@image 1 (5)

    Thứ năm, Cho đến ngày hôm nay, sau hơn 80 năm cai trị Việt nam thì đảng cộng sản vẫn còn những người ra biển tìm tự do. Xin quý vị chú ý     đến bài báo trên RFA sau đây :

“Hiện nay vẫn còn có những người Việt Nam phải bỏ nước ra đi bằng thuyền như phong trào thuyền nhân vượt biển cách đây gần 40 năm sau     thời điểm 1975.Hãng thông tấn AP hôm nay loan tin tính đến lúc này trong năm nay có 460 người Việt Nam tìm đến được bến bờ nước Úc.         Đây là con số bằng cả năm năm qua gộp lại.Tàu chở thuyền nhân Việt Nam mới nhất đến được đảo Christmas Island của Úc là vào hồi tháng       trước. Chiếc tàu có số hiệu đăng ký tại tỉnh Kiên Giang. Đây là tỉnh có khoảng cách đến đảo Chirstmas Island hơn 2300 kilomet….Một                 thuyền nhân có tên Trương Chí Liêm 23 tuổi khi AP liên lạc được qua điện thoại từ Trung Tâm Giam giữ Người Nhập cư Villawood, nằm ở           ngoại vi Sydney, cho biết là anh ta thà chết ở trại chứ không để bị cưỡng bức về lại Việt Nam. Người này rời Việt Nam cách đây 5 năm và bị           bắt giam ở Indonesia 18 tháng khi đang trên đường tìm đến Úc.”.

    Thứ sáu, còn rất nhiều bằng chứng về thuyền nhân Việt Nam, chúng tôi xin gửi đến quý vị những đường links đến các video mô tả một trong        những sự kiện bi thương của dân tộc Việt nam chúng tôi mà đảng cộng sản chính là những kẻ thủ ác.

< iframe width="620" height="465" src="http://www.youtube.com/embed/J5CDi2QW0L8?feature=oembed" frameborder="0" allowfullscreen="" style="padding: 0px; margin: 0px; outline: none; list-style: none; border-width: 0px; border-style: none; max-width: 100%;">< /iframe>

< iframe width="620" height="349" src="http://www.youtube.com/embed/o-GQ8ID3buE?feature=oembed" frameborder="0" allowfullscreen="" style="padding: 0px; margin: 0px; outline: none; list-style: none; border-width: 0px; border-style: none; max-width: 100%;">< /iframe>

< iframe width="620" height="349" src="http://www.youtube.com/embed/5S9W9-nTgLE?feature=oembed" frameborder="0" allowfullscreen="" style="padding: 0px; margin: 0px; outline: none; list-style: none; border-width: 0px; border-style: none; max-width: 100%;">< /iframe>

< iframe width="620" height="465" src="http://www.youtube.com/embed/P5Tjq1NtIoA?feature=oembed" frameborder="0" allowfullscreen="" style="padding: 0px; margin: 0px; outline: none; list-style: none; border-width: 0px; border-style: none; max-width: 100%;">< /iframe>

@image 1 (6)

Đôi mắt thất thần của những người Việt trong trại tỵ nạn

Kính thưa quý vị !

Trong lịch sử dân tộc Việt Nam chúng tôi, cộng sản cũng gây nên nhiều tội ác và cho đến ngày hôm nay những tội ác đó vẫn còn tồn tại và         hàng ngày diễn ra. Chúng tôi xin gửi đến quý vị những tội ác cộng sản cho đến ngày nay vẫn hàng ngày hàng giờ diễn ra trên khắp mọi             miền tổ quốc Việt Nam chúng tôi. Chúng tôi muốn công lý phải được thực hiện và ánh sáng hòa bình dân chủ sẽ đến với quê hương Việt           Nam.Tội ác của cộng sản hiện nay còn rất nhiều, nhưng trong khuôn khổ bản cáo trạng này tôi xin gửi đến quý vị các tội ác sau đây của              cộng sản Việt Nam đó là : Đàn áp tôn giáo, cướp đất đai của nhân dân.

   III. Đàn áp tôn giáo và cướp đất đai:

   1. Đàn áp tôn giáo:

Kính thưa quý vị !Tự do tôn giáo là một quyền cơ bản của con người. Chính hiến chương LHQ cũng công nhận điều này và yêu cầu các nước      thành viên cam kết phải thực hiện. Nhưng từ khi có đảng cộng sản thì tôn giáo chưa bao giờ được đối xử đúng mực mà luôn chịu đàn áp            nếu tôn giáo đó không tuân theo sự chỉ đạo của cộng sản và phục vụ cho cộng sản. Xin điểm qua một số những dẫn chứng để cho thấy cộng      sản luôn đàn áp tất cả tôn giáo khi không có lợi cho mình.

Thứ nhất, Linh Mục Nguyễn Hữu Lễ là một trong những người đã chứng kiến cảnh tượng trong nhà tù cộng sản. Và ông đã mô tả chân thực cuộc sống của nhà tù cộng sản giành cho quân dân cán chính VNCH cũng như những người hoạt động tôn giáo. Chật chội, ngột ngạt hơi người, mùi hôi của mọi người, mọi bệnh riêng của mỗi người, cả tháng không tắm. Cả ngàn người có một giếng nước, kéo một lúc đã cạn nước, nhiều khi có chuột bọ chết thối trong giếng. Ăn uống vào là bị kiết lỵ. Đi cầu vào các dẫy hố đào trên mặt đất…

“Cả trại nhốn nháo về bệnh kiết lỵ. Hầu như không khu nào thoát. Chưa bao giờ buổi sáng lại đông người chờ đi cầu như vậy. Mặt mũi người nào cũng nhăn nhó, mệt mỏi trông thật thảm hại… Thật đau khổ, lúc nào bụng cũng quặn đau, mỗi lần đi cầu són ra một chút, phân ít, mũi máu nhiều. Từ nơi tôi ở ra nhà cầu khá xa. Để tiện việc, tôi không về nhà, ngồi ngay ở căn nhà chiếu Tivi sẵn sàng chạy ra hố cầu khi cần. Không phải mình tôi như vậy mà hàng chục người tay cầm lon nước, ngồi bệt xuống mặt cát. Bệnh của tôi kéo dài cả tuần sau khi uống cả lọ tetracycline do Lan cho. Trong thời gian kỷ luật chúng tôi được xuống sông tắm mỗi hai tuần một lần. Tuy nhiên nhiều khi cán bộ bận hay có việc gì bất thường thì phải chờ lâu tới ba tuần”, (Tầng Ðầu Địa Ngục – Linh Mục (LM) Nguyễn Hữu Lễ.).

Và cùng đó là cảnh thiếu thốn: “Điều quan trọng đối với tôi là cái đống rác! Mỗi lần đi ngang đống rác trước cổng trại là mỗi lần đời tôi lên hương. Hai con mắt hoạt động tích cực để tìm nhặt những thứ cần thiết cho cuộc sống trong buồng như vải rách dùng đại tiện, bọc nylon làm nhiên liệu chất đốt, hoặc may mắn hơn thì cái bàn chải đánh răng cũ hoặc ít giấy bao xi măng làm vở viết chữ Tầu, thứ ngôn ngữ tôi đang cố học”, (Tầng Ðầu Ðịa Ngục – LM Nguyễn Hữu Lễ.).

Cùng đó là những hành động bị hành hạ cơ thể:“Tùy theo mức độ nặng nhẹ khác nhau của các hình thức vi phạm nguyên tắc mà tù nhân bị “đại ca” ra hình phạt tương xứng theo luật giang hồ tù. Nếu chỉ để cảnh cáo và áp đảo tinh thần những lính mới để bắt phải đi vào khuôn phép thì chỉ cần sử dụng “chưởng” tức là đánh bằng hòn đá bọc trong cái vớ hoặc “bẻ ngà” là dùng đá cà hoặc đập gẫy hết cả hai hàm răng. Trường hợp nặng hơn thì “lấy cấp pha” tức là móc đôi mắt, hoặc “ xin cặp nạng” nghĩa là cắt gân gót chân. Trường hợp nghiêm trọng thì đối phương sẽ được “cất” có nghĩa là giết chết”, (Tầng Ðầu Ðịa Ngục – LM Nguyễn hữu Lễ.).

Thứ hai, Phần trên là hồi ký của một linh mục . Nhưng quý vị có thể thấy Phật Giáo cũng chẳng khá hơn trong một chính sách đàn áp tôn giáo của cộng sản. Quý vị có thể đoc cuốn :”HỒI KÝ HAI SÁU NĂM LƯU ĐÀY DƯỚI CHẾ ĐỘ CỘNG SẢN VIỆT NAM “ của hòa thượng Thích Thiện Minh như sau : “Tại đây, từ việc đánh đập bằng tay chân, bằng gậy gộc, bằng dùi cui, bằng báng súng cho đến cùm, quyện, giam vào phòng giam riêng là điều xảy ra hàng giờ hàng buổi. Trại giam có đủ mọi cán bộ, công an từ Bắc vào Nam, kể cả kháng chiến lâu năm cho đến những tên công an loại mới vào ngành mà dân gian thừơng gọi là bọn “công an 30/4”. Họ đều có những ngón nghề độc đáo để điều tra, nào là đánh túi bụi, đánh kiểu trên đao dưới búa, còng tay đứng, còng chéo tay sau lưng, còng ngồi đan chéo hai tay. Họ dùng nhục hình để điều tra, bản thân tôi khi giam giữ tại đây, cũng không tránh khỏi những nhục hình này. Hàng ngày hai chân tôi luôn ở trong cùm, bị cùm suốt ngày đêm, suốt tháng quanh năm. Hai chân bị cùm quyện tại chỗ, không thể đứng thẳng được nên dần dần bị tê liệt.” Cuốn hồi ký như một bằng chứng sống về việc cộng sản đàn áp tôn giáo.

Thứ ba, Xin điểm qua một số vụ án đàn áp tôn giáo một cách dã man. Điển hình là một số trường hợp sau:

Vụ án Thái Hà: Vào lúc 2g30 chiều nay, 3/11, hàng trăm côn đồ hung hãn, dưới sự hỗ trợ của an ninh, cảnh sát các loạt, đồng loạt tấn công nhà thờ Thái Hà. Một số mặc thường phục đã dùng búa trữ sẵn ở Trạm bảo vệ ngay trước cửa Nhà thờ để phá cổng nhà thờ, và đặc biệt là đập hư nát mấy cánh cửa của nhà thờ.

Đêm 16/11/2011 rạng sáng ngày 17/11/2011, chính quyền Hà Nội đã cho đám dân phòng, công an chìm, công an sắc phục tới chặn đường hành hung giáo dân, các vị lãnh đạo tôn giáo và cho xe xúcđất, ủi đất, xe cần trục . . . tới đào đất, đặt 3 thùng chứa nước loại cực lớn để làm cái mà chúng gọi là “Trạm Xử Lý Nước Thải” chính thức lấy đất của Nhà Dòng Chúa Cứu Thế và Giáo Xứ Thái Hà. Linh mục Chánh Xứ Thái Hà – Giuse Nguyễn Văn Phượng đã phản đối việc chiếm đất này của chính quyền Hà Nội và gởi thơ cầu cứu đi khắp các nơi.

Công luận khắp nơi lên tiếng phản đối thái độ đàn áp tôn giáo của chính quyền Cộng sản Hà Nội, đã hành hung giáo dân và chiếm đoạt tài sản của Nhà Dòng Chúa Cứu Thế Thái Hà.

Quý vị có thể xem chi tiết tại các links sau:

http://www.nuvuongcongly.net/xa-hoi/thong-tin-tren-mang/hanoitancongthaiha/

http://www.youtube.com/watch?v=qfk0CtyFlvE

Đàn áp PGHH:

Cuộc kháng chiến của toàn dân khởi đi trong bầu không khí sôi nổi, phấn khởi vô cùng. Tháng 9/45, hầu như tất cả dân chúng miền Nam đều ủng hộ Việt Minh. Nhưng chỉ vài tháng sau đó, với chính sách sắt máu như bắt cóc, cho “mò tôm”, chặt đầu, móc mắt, cắt lưỡi, mổ bụng, những nạn nhân bị chụp mũ “Việt gian”, “phản động”, “phản cách mạng”, đã tạo ra mộ làn sóng căm phẫn bao trùm đất nước. Cuộc kháng chiến do đó mà bị xẹp lép như trái banh xì hơi. Những người còn sống sót, con cháu của các nạn nhân đi tìm chỗ tỵ nạn, họ buộc lòng phải “về thành” để tránh bị Việt Minh tàn sát lần nữa. Họ đành chịu mang tiếng là “hợp tác với giặc Pháp”. Sinh lực kháng chiến tiêu tan ngay, tạo đà cho quân Pháp chiếm lại các tỉnh miền Nam một cách dễ dàng chỉ trong vòng…4 tháng.

Chỉ trong vòng có 2 tháng trời, giành quyền đại diện dân chúng miền Nam, Việt Minh đã biến tình đoàn kết thành nội thù. Các vụ giết người mờ ám, các vụ khủng bố đẫm máu…đã làm cho dân miền Nam thức tỉnh. Phi nghĩa và làm mất thế đoàn kết ngay khi Việt Minh ra lịnh đàn áp đẫm máu cuộc biểu tình của Phật Giáo Hòa Hảo tại Cần Thơ. Theo lịnh Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ để chống lại tình trạng độc tài của Việt Minh, tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo các vùng lân cận tỉnh Cần Thơ và một số thị dân kéo về biểu tình rầm rộ với tay không và biểu ngữ. Cuộc biểu tình có xin phép Chủ tịch Ủy ban Hành chánh là ông Trần Văn Khéo. Sáng sớm ngày 8/9/45, khi đoàn biểu tình với một số “bảo an” với tầm vong vạt nhọn thì làm sao chống lại với súng đạn ! Trước đó, Việt Minh đã mời đại diện của Phật Giáo Hòa Hảo ở Cần Thơ là các ông Huỳnh Thạnh Mậu (bào đệ Đức Thầy), Nguyễn Xuân Thiếp (anh họ nhà văn Nguyễn Hiến Lê) và Trần Văn Hoành (con trai ông Năm Lửa) đến thương thuyết nhưng thất bại. Nhiều người tham dự cuộc biểu tình này chỉ có tay không với bình nước uống, vừa từ dưới ghe cặp bến, đã bị tự vệ của Việt Minh bắn chết ngay tại bờ sông.

Trong vụ thảm sát này, ông Hoàng Quốc Kỳ, một người kháng chiến tập kết về Bắc, gặp lại bạn cũ, là ngươi đã xả súng bắn vào nhóm biểu tình ấy, kể lại như sau :

“Nguyễn Văn Nghệ, một tay súng tiểu liên đầu đàn của Vệ quốc đoàn miền Tây Nam Bộ (CS), kể lại trận “tắm máu đó ” : Tụi Hòa Hảo gan cùng mình ! Lớp này ngả xuống, lớp khác tiến lên, cả đàn bà con nít cũng vậy. Bóp cò đến rung cả tay, máu loang đỏ hết cả mặt đường mà chúng nó vẫn nhào vô họng súng. Chiến sĩ ta đã tản thần nhưng lịnh bắt phải bắn tiếp”Đàn áp xong, Việt Minh dùng xe có loa phóng thanh chạy khắp đường phố loan tin : Hòa Hảo dùng ghe vượt sông Cần Thơ, đổ bộ vào châu thành, bị “Vệ quốc đoàn” đẩy lui.

Tội ác của Việt Minh đối với Cao Đài:

Tiêu diệt tôn giáo, đảng phái là chủ trương của người CS ngay khi họ nắm được chính quyền ở Nam Bộ bằng cái “Lâm Ủy Hành Chánh”. Nếu Trần Văn Giàu đã gieo tang tóc cho Nam Bộ đang lâm chiến bao nhiêu, thì tội ác của Tướng Nguyễn Bình đối với tôn giáo, đảng phái cũng tày trời bấy nhiêu.

Thủ đoạn của Việt Minh là mua chuộc, lôi kéo về phe họ, phục vụ quyền lợi của họ, làm viên gạch lót đường, làm con chốt hy sinh. Ai ngoan ngoãn thì lợi dụng có giai đoạn, sau đó tìm cách ám sát, gọi là “tử trận”, “hy sinh”,… Biết rõ âm mưu này, Cao Đài bất hợp tác, bị Việt Minh đánh phá, phải kéo về Tây Ninh để khỏi bị tiêu diệt. Thất bại, Việt Minh lập một kế hoạch lừa bịp mới : lập nhóm Cao Đai ly khai ở Bạc Liêu, chiêu dụ họ đứng về “phe kháng chiến”. Việc chống xâm lăng là một nghĩa vụ của người dân, một tín đồ, nhưng phục vụ riêng cho quyền lợi của CS thì tôn giáo nào cũng từ chối. Phái Cao Đài Minh Chơn của ông Cao Triều Phát và Trần Đạo Quang ở Bạc Liêu đã bị lừa vào cái bẩy sập đó.

Cao Triều là một dòng họ lớn, nhiều người là đại điền chủ, có con cái ăn học bên Tây. Cao Triều Phát là một trong những cự phú xứ “công tử coi tiền như rác”. Giàu có lớn, Cao Triều Phát là người có tâm đạo, làm việc nghĩa, tính tình hiền lành. Từ khi biết mình bị lừa vào hang cọp, ông âm thầm chịu đựng, đóng trọn vai trò lừa bịp do CS dàn dựng. Từ khi khai đạo tại Tây Ninh, Cao Đài lần lượt chia nhiều hệ phái: Cao Đài Tây Ninh, Cao Đài Bến Tre của Lê Kinh Ty, Nguyễn Ngọc Tường, và Cao Đài Minh Chơn Hậu Giang của ông Cao Triều Phát và chưởng pháp Trần Đạo Quang.
Năm 1932, Thánh thất Cao Đài Minh Chơn đặt tại Giồng Bướm, làng Phong Thạnh, quận Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu, lấy tên là Thánh thất Ngọc Minh. Rùn ép, đe dọa, Việt Minh dùng thủ đoạn bắt ông Cao Triều Phát làm bình phong để có danh nghĩa cho họ lập “Đại Hội Liên Tôn Quốc Doanh”. Trước đó, với sự dàn dựng của Việt Minh, “Cao Đài Cứu Quốc Họp Nhứt 12 Chi Phái” để lôi kéo tín đồ ủng hộ kháng chiến do họ lãnh đạọ một giai đoạn khá ly kỳ được dân chúng Bạc Liêu thường nhắc tới là việc CS dùng thủ đoạn moi tiền ông Cao Triều Phát một cách thô bỉ.

Người miền Tây còn nhớ việc này rành rành như sau (Theo thư nhà văn An Khê Nguyễn Bính Thinh gởi cho tác giả ngày 2/2/94) :

“…Trong những năm đầu của cuộc kháng chiến, có một lá thơ của “bác Hồ” gởi Ủy ban Hành chánh Kháng chiến Nam Bộ, trong đó nhắc tổ chức trao chiếc áo và thư “của Bác” cho ông Cao Triều Phát. Đó là chiếc áo lụa, do các em thiếu nhi Hà Đông tặng khi bác Hồ còn ở Hà Nộị Trong “tuần lễ vàng”, Việt Minh lại đem chiếc áo ấy bán đấu giá, buộc ông Cao Triều Phát phải mua với giá 50 vạn đồng (50,000 đồng) 1 chiếc áo lụa nhàu nát như miếng giẻ rách.

Từ đó, ông Cao Triều Phát đã lọt vào quỹ đạo của CS, sẵn sàng làm bù nhìn để Cao Đài mặc tình sai khiến đóng trò.

Riêng hệ phái Cao Đài Tây Ninh, cũng bị mua chuộc, dụ dỗ, nhưng không thành công. Tiếp đó, Việt Minh giở trò vu khống, rồi khủng bố, ám sát nhắm vào các ông Trần Quang Vinh, Giáo chủ Phạm Công Tắc, Hồng Sơn Đông, Nguyễn Vạn Nhả, nhưng thất bại.

Ông Dương Đình Lôi đã kể lại rằng, “Trong 2 năm 1946-1947, Việt Minh đã đưa cả một trung đoàn về ẩn náu tại vùng Long Sơn, núi Nứa (Cần Giờ), có mục đích đánh phá đạo Cao Đài. Vùng Rừng Sác có một họ đạo Cao Đài tại Cần Giờ. Trung đoàn 300 của Việt Minh vẫn thường xuyên đột nhập, gọi là “tảo thanh”, gặp tín đồn Cao Đài là cứ bắn giết, nhà cửa thì đốt sạch. Mỗi lần như vậy, dân đạo Đao Đài phải chạy vào đồn bót Tây để được Tây che chở…”

Thứ tư, Xin gửi đến quý vị một số trường hợp đàn áp tôn giáo gần đây nhất xảy ra trong tất cả các tôn giáo tại Việt Nam để quý vị thấy những hành động của đảng cộng sản là không thể chấp nhận được.

@image 1 (7)

Những thương phế binh VNCH nhận quà ở chùa Liên Trì bị đàn áp

http://www.chuacuuthe.com/2013/07/03/nha-cam-quyen-xui-giuc-ton-chuc-sac-quoc-doanh-tan-cong-thanh-that-cao-dai-long-binh-go-cong-tay/

http://danchuahiepthong.wordpress.com/2013/05/24/csvn-dung-hang-ngan-cong-an-trong-vu-xu-8-thanh-nien-cong-giao/

http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/falun-harr-in-dnang-10222012073858.html

http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/police-prevented-dissidents-gathering-08062012095648.html

2. Cướp đất của nhân dân:

Kính thưa quý vị !
Ngoài việc đàn áp tôn giáo thì nhà cầm quyền cộng sản còn cướp đoạt đất đai và đàn áp nhân dân mất đất để làm giàu cho bản thân. Xin mời quý vị theo dõi một số dẫn chứng sau đây của chúng tôi. Đây chỉ là một số dẫn chứng trong hàng triệu trường hợp bị cướp đoạt đất đai của cộng sản Việt Nam.
Thứ nhất, Vụ án Đoàn Văn Vươn ở Tiên Lãng – Hải Phòng là một trong những vụ án nổi tiếng về hành động cướp đoạt đất đai ở Việt Nam. Ông Đoàn Văn Vươn (1963) sinh sống tại Cống Rộc, xã Vinh Quang, huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng , từng phục vụ trong quân đội cộng sảnViệt Nam, là kĩ sư nông nghiệp tốt nghiệp Đại học Nông nghiệp Hà Nội.Từ năm 1993, ông Vươn thực hiện việc quai đê lấn biển để nuôi trồng thủy sản. Ông khởi nghiệp bằng việc bán tài sản, vay mượn bạn bè, người thân và ngân hàng, chịu nhiều thiệt hại mất mát trong quá trình lấn biển, bao gồm cái chết của con gái đầu 8 tuổi bị rơi xuống cống chết đuối trong một lần theo bố mẹ ra đầm . Gia đình ông theo đạo Công giáo thuộc giáo phận Hải Phòng.
Cụ thể, năm 1993, huyện Tiên Lãng ban hành quyết định giao cho Đoàn Văn Vươn diện tích 21ha đất bãi biển khu vực nam cống Rộc thuộc xã Vinh Quang để sử dụng vào mục đích nuôi trồng thủy sản, thời hạn sử dụng là 14 năm. Trong quá trình sử dụng ông đã tự ý đắp bờ bao để sử dụng vượt quá diện tích được giao.Từ năm 1995, ông đã xây được một con đê cao tạo thành bờ bao cho một vùng đầm rộng lớn hàng chục ha cùng hàng ngàn cây sú, vẹt mọc lên tạo thành cánh rừng chắn sóng.Gia đình ông đã có đầm nuôi tôm, cá để sinh sống.
Tháng 3 năm 1997, ông Vươn làm đơn xin giao đất bổ sung phần diện tích lấn biển ngoài diện tích được giao. Tháng 4 năm 1997, huyện Tiên Lãng ra quyết định giao bổ sung cho ông Vươn 19,3ha giáp với diện tích đã giao, thời hạn 14 năm. Tổng cộng ông Vươn được sử dụng 40,3ha đất để nuôi trồng thủy sản.Đê lấn biển của ông còn được cho rằng đã góp phần giúp nhân dân trong vùng không phải lo vỡ đê mỗi khi bão lũ. Ông Vươn đã đắp được một số đoạn đê để bảo vệ đầm thủy sản của mình, ví dụ như đoạn đê công vụ. Chính quyền huyện sau này cũng đắp thêm được một số đoạn nhỏ của đê công vụ, nhưng lại nhận rằng chính quyền đã có công đắp đê chứ không phải ông Vươn. Việc này đã bị người dân địa phương phản đối.
Đến thời điểm hết hạn giao đất, năm 2009, huyện Tiên Lãng đã làm thủ tục thu hồi toàn bộ 40,3 ha của ông Đoàn Văn Vươn. Tuy nhiên, ông Vươn đã khiếu nại việc thu hồi 19,3ha đất lên huyện, sau đó không đồng tình quyết định của huyện, ông khởi kiện lên Tòa án.Ngày 27 tháng 1 năm 2010, Tòa án huyện Tiên Lãng đã xét xử sơ thẩm và bác đơn khởi kiện của ông Vươn; giữ nguyên quyết định thu hồi. Đoàn Văn Vươn tiếp tục kháng cáo bản án sơ thẩm. Tóa án Nhân dân thành phố Hải Phòng đã thụ lý hồ sơ và tiến hành “hòa giải” bằng “Biên bản thỏa thuận”: nếu ông rút đơn thì UBND huyện Tiên Lãng sẽ tiếp tục cho thuê đất.
Sau khi có Quyết định đưa vụ án ra xét xử ngày 19 tháng 4 năm 2010, ông Vươn rút toàn bộ yêu cầu kháng cáo. Ba ngày sau, Tòa án Nhân dân thành phố Hải Phòng quyết định đình chỉ việc xét xử phúc thẩm vụ án hành chính này. Sau đó, huyện Tiên Lãng đã nhiều lần gửi thông báo làm việc với ông Vươn về việc thu hồi đất đã hết thời hạn sử dụng. Ông Vươn vẫn yêu cầu huyện tiếp tục cho ông thuê đất để nuôi trồng thủy sản.
Sáng 5 tháng 1 năm 2012, huyện Tiên Lãng đã tiến hành cưỡng chế với lực lượng đông đảo hơn 100 người bao gồm cả lực lượng công an và quân đội do phó chủ tịch huyện Nguyễn Văn Khanh làm trưởng ban cưỡng chế nhưng đã bị gia đình ông Đoàn Văn Vươn chống trả.
Rõ ràng việc cướp thành quả, phá nhà và tài sản , đẩy gia đình ông Vươn vào tù sau phiên tòa bị lên án mạnh mẽ là minh chứng cho những gì thể hiện bản chất cướp bóc của đảng cộng sản.Xin quý vị xem một số bài viết và phỏng vấn để thấy bản chất độc ác và tham lam của đảng cộng sản Việt Nam.
Tổ chức bảo vệ nhân quyền quốc tế Human Rights Watch nói vụ án Đoàn Văn Vươn ở Tiên Lãng (Hải Phòng) là tín hiệu cảnh báo cho nhà cầm quyền Hà Nội về hậu quả của tình trạng thiếu nhân quyền và pháp trị tại Việt Nam.Phó Giám đốc phụ trách khu vực Châu Á trong tổ chức Human Rights Watch, ông Phil Robertson, phát biểu với VOA Việt ngữ: “Hai vấn nạn liên kết giữa chính sách tịch thu đất đai bất hợp lý và quan chức tham nhũng cộng với tình trạng không theo trình tự pháp lý hợp lệ và thiếu tính hợp pháp là những yếu tố khiến người dân Việt Nam bức xúc trước vụ án Đoàn Văn Vươn. Dù cách đáp trả bằng bạo lực của gia đình ông Vươn là hành động không thể chấp nhận, nhưng sự việc này cảnh cáo chính phủ Việt Nam về những gì có thể xảy ra khi họ để cho quan chức nhà nước mặc tình vi phạm nhân quyền của người dân”
(links: http://www.voatiengviet.com/content/hrw-noi-vu-doan-van-vuon-chung-to-vietnam-thieu-nhan-quyen/1634664.html)
http://www.youtube.com/watch?v=FCsKqP0lsk8
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/dvv-case-view-point-of-a-ame-judge-ml-04012013124012.html
Thứ hai,Vụ án cướp đất ở Văn Giang – Hưng Yên. Vào khoảng 5 giờ 30 phút sáng ngày 23/4/2012, hàng nghìn công an, bộ đội cùng khoảng 40 máy xúc máy ủi đã được huy động đến cưỡng chế cánh đồng xã Xuân Quan, trong sự chống trả quyết liệt của khoảng 2000 người dân của ba xã Xuân Quan, Phụng Công và Cửu Cao.
@image 1 (9)

Hàng ngàn công an, cảnh sát cơ động, bộ đội được huy động đến xã Xuân Quan, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên hôm 24-04-2012 để cưỡng chế 70 hecta đất xây dựng khu đô thị Ecopark

Thứ ba, vụ án cướp đất tại Dương Nội. 9h30 sáng ngày 31/1/2013 giới chức địa phương đã đưa lực lượng chừng 200 người, gồm dân phòng, công an, thanh tra giao thông và cả đầu gấu tới đàn áp dân Dương Nội, gây xung đột, giằng giật ác liệt. Vụ án cướp đất tại Dương nội cũng khiến cho dư luận căm phẫn trước sự bạo tàn của nhà cầm quyền cộng sản.Xin quý vị tìm hiểu thêm tại một số links sau:
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2013/01/130131_khieu_kien_dat_dai.shtml

< iframe width="620" height="465" src="http://www.youtube.com/embed/vRafNvsnk2M?feature=oembed" frameborder="0" allowfullscreen="" style="padding: 0px; margin: 0px; outline: none; list-style: none; border-width: 0px; border-style: none; max-width: 100%;">< /iframe>

< iframe width="620" height="349" src="http://www.youtube.com/embed/XsEB1uCNawM?feature=oembed" frameborder="0" allowfullscreen="" style="padding: 0px; margin: 0px; outline: none; list-style: none; border-width: 0px; border-style: none; max-width: 100%;">< /iframe>

http://www.rfa.org/vietnamese/HumanRights/y-duong-noi-police-conceal-evidence-ml-03272013074904.html

@image 1 (10)

Người dân Dương Nội phản đối nhà cầm quyền cộng sản

Thứ tư, vụ án tại Trịnh Nguyễn- Bắc Ninh. Nông dân ở làng Trịnh Nguyễn Bắc Ninh đã làm lều để quyết giữ ruộng đất cho các gia đình chính sách, nhưng lực lượng công an trong vùng sắp kéo đến uy hiếp bà con. Hàng ngày bà con thay phiên nhau túc trực, có lúc đông nhất lên đến hơn 1000 người. Được biết vào sáng chủ nhật, khi thấy một số công an và bộ đội xuất hiện quanh làng, bà con đã thúc chiêng gõ trống trong vòng 5 phút báo động. Hơn 500 người dân đã tập trung để kiên quyết giữ ruộng đến cùng.Các ngày trong tuần vẫn liên tục có hàng trăm bà con giữ đất.Đã có một số bà con bị thương do bị công an hành hung dùng dùi cui đánh vài thanh niên và 1 cụ già.Các học sinh đi học thì bị dọa cấm thi, người đi làm thì bị dọa đuổi việc.Sự việc này xuất phát từ việc đền bù không thỏa đáng cho 42 hộ gia đình thương binh, liệt sỹ .Qua đây cho thây nhà cầm quyền cộng sản đã quay lưng lại ngay cả với những người mà họ gọi là “Có công với cách mạng”.
Xin quý vị xem thêm tại các links sau:
http://www.youtube.com/watch?v=WfN3n_M4hzI
http://conglytudo.blogspot.com/2013/06/cuoc-chien-cua-nhan-dan-trinh-nguyen.html
Đặc biệt nghiêm trọng là một người dân oan là Chị Đỗ Thị Thiêm từ Bắc Ninh là nhân vật nổi trội trong vụ khiếu kiện về đất đai cùng với bà con Trịnh Nguyễn. Công an đã nhiều lần đe dọa trực tiếp là sẽ “cho mày ân hận suốt đời vì tội khiếu kiện vượt cấp”. Và bây giờ thì chúng đã hành động.
@image 1 (11)

Dân oan Đỗ Thị Thiêm bị tạy acid lên toàn bộ phần ngực

Nhưng cách hành động của an ninh tỉnh Bắc Ninh ngày 4.7.2013 thật hèn hạ. Lợi dụng gia đình chị Thiêm có một con trai bị thương hơn 2 năm nay cần xin trợ giúp của Hội chữ thập đỏ. Công an đã gọi 4 lần vào số máy của chị Thiêm là khi thì về Hàng Buồm để được giải quyết vụ này. Khi thì ra trạm y tế xã để được chiếu cố. Lần thứ 4 chị Thiêm vừa ra khỏi nhà, nhìn quanh không thấy ai thì bất ngờ một người xuất hiện tạt nguyên 1 ca acid vào người của chị. Không may là acid dính vào người từ cằm trở xuống và bị nặng nhất là trện 2 tay. Chị Thiêm khẳng định là thấy 2 người đàn ông tẩu thoát bằng xe máy.
Xin quý vị theo dõi ở links sau:
http://danlambaovn.blogspot.com/2013/07/22-nam-ca-van-tiep-tuc-dung-thu-oan-tat.html#disqus_thread

http://www.youtube.com/watch?v=OwGWkYSWjAo

Thứ năm, vụ cướp đất tại Vụ Bản- Nam Định. Xin quý vị theo dõi một số link sau để thấy các hành động độc ác của cộng sản Việt Nam:

http://www.nuvuongcongly.net/xa-hoi/phong-su/nam-dịnh-nha-cầm-quyền-dung-quan-dội-kết-hợp-cong-an-dan-ap-nhan-dan-dể-cướp-dất/

http://diendanctm.blogspot.com/2012/05/nam-inh-cong-vu-ban-lai-thang-tay-ap.html

< iframe width="620" height="349" src="http://www.youtube.com/embed/9ghkYPBgYT4?feature=oembed" frameborder="0" allowfullscreen="" style="padding: 0px; margin: 0px; outline: none; list-style: none; border-width: 0px; border-style: none; max-width: 100%;">< /iframe>

http://www.youtube.com/watch?v=_pGwBZA9AAQ

@image 1 (12)

Công an đàn áp nhân dân Vụ Bản – Nam Định

Đặng Chí Hùng


Cờ dân tộc đã trở lại

Giữa lúc cả dân tộc ta đang chịu thêm những đau đớn vì giặc Tàu đã có mặt ở hai đầu đất nước, rồi bây giờ là khúc ruột miền trung yêu dấu, đồng thời ngoài hải đảo Hoàng – Trường Sa, giặc đang tăng cường thêm các công trình quân sự. Vậy mà đau đớn thay cho một dân tộc có hơn 4000 năm văn hiến, dựng nước và giữ nước đã phải chứng kiến ông đương kim thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cất cao bài ca “chiến thắng” kiểu AQ chính truyện bên Tàu. Cũng giống như ông tổng bí thư Trọng “lú”, ông thủ tướng y tá 3X đã tuyên bố trước Quốc hội của những anh nghị “gật” rằng: “Với Trung Quốc, dù mưa nắng hay bão lũ, Việt Nam cũng là láng giềng, mãi mãi là láng giềng, nên Việt Nam mong muốn sự chân thành hợp tác để cùng phát triển vì hòa bình, để thực hiện một cách thực chất, hiệu quả phương châm “16 chữ”, tinh thần “4 tốt”, để mang lại lợi ích cho cả 2 bên”. Và ông thủ tướng “2bao cao su đã qua sử dụng” cũng chẳng quên thêm vào ngôn từ đao to búa lớn“vừa hợp tác vừa đấu tranh”.

Đấu tranh gì đây? Hợp tác gì đây? khi giặc cướp Hoàng Sa, Trường Sa, giết hại binh lính, ngư dân của chúng ta. Thật chẳng có từ ngữ gì khác để diễn tả sự nhu nhược và đểu giả của những kẻ tự xưng “đỉnh cao trí tuệ loài người” đối với dân tộc Việt Nam. Biết nói gì đây khi đất nước đã thật sự lâm nguy khi chính những ông bà nghị chỉ biết ăn tiền mồ hôi nước mắt của người dân đã thừa nhận:” Lao động người nước ngoài ở Việt Nam, ngoài lao động trình độ chuyên môn kỹ thuật, vẫn còn lao động không có chuyên môn nghiệp vụ. Phần đông trong số đó là người Trung Quốc đi theo con đường du lịch vào Việt Nam”. Hợp tác và đấu tranh của đảng phải chăng chỉ là cái cúi đầu tuân phục đến rạp cả người của Trương Tấn Sang ?. Có lẽ là như vậy !. Bởi vì đảng cộng sản Việt Nam đã và đang bán những phần đất cuối cùng của quê hương Việt Nam cho giặc.

Nhưng, có lẽ là hồn thiêng sông núi đã không thể nhắm mắt làm ngơ. Song hành cùng các cuộc đấu tranh trên khắp các nẻo đường tổ quốc của dân oan, trí thức, sinh viên, các tôn giáo, các tổ chức đấu tranh đòi dân chủ và ngay cả một số đảng viên thức tỉnh thì hồn thiêng sông núi đã phù trợ cho lá cờ của dân tộc trở lại.

co vang 8x12

Người dân tại Sài Gòn đã chụp được ảnh một Người âm thầm mang cờ vàng trên vai giữa phố xá Sài Gòn. Hình ảnh dưới được chụp sáng nay lúc 7g15 phút ngày19/11/2014 tại Cầu Kinh Tẻ Quận 7. Người đàn ông vô danh này đã chợt làm tôi nhớ lại lần 2008 khi ngọn đuốc “ô nhục” của Thế Vận Hội Bắc Kinh do Tàu Cộng đăng cai đi qua Sài Gòn thì cũng có một người cũng đã phất cờ vàng Dân Tộc bị bắt rồi biệt tăm. Và hôm nay, tôi lại nhìn thấy hình ảnh lá Cờ Vàng Dân Tộc của tôi trên ngay mảnh đất quê hương Việt Nam đang điêu tàn dưới ngọn roi của tử thần cộng sản. Tôi nghĩ rằng, lá cờ dân tộc đang âm thầm trở lại. Và sẽ có một ngày nó được tung bay trên khắp ba miền đất nước. Vì đơn giản đó chính là lá cờ chính nghĩa, lá cờ của tự do, lá cờ của dân chủ và trên hết nó là lá cờ của Dân Tộc mà chính tôi và rất nhiều thế hệ đã hãnh diện khi được đứng dưới cờ.

covantrolai1

Nhưng chúng ta cần nhiều người dũng cảm như người đàn ông vô danh mà tôi đã nhìn thấy trên hình mà kể từ giờ phút này, anh đã là người có tên trong lòng tôi. Đó là cái  tên thật giản dị “Anh Hùng”. Cho dù anh có bị những kẻ đầu trâu mặt ngựa cướp phá, và cho đến giờ phút này, chúng ta vẫn chưa biết anh sẽ ra sao. Nhưng đơn giản, anh đã  đem hồn thiêng sông núi trở lại. Anh là một người Hùng.

Muốn để cho lá cờ của Dân Tộc trở lại thật sự, chúng ta phải làm nhiều hơn nữa để vạch mặt chính sách ”ngậm máu phun người” và xuyên tạc về sự thật lịch sử thật tài tình  để chống phá tự do, dân chủ của đảng cộng sản. Ngay cả lá cờ vàng của dân tộc trải qua rất nhiều thăng trầm lịch sử cũng bị đảng cộng sản bôi nhọ.Cho đến hôm nay, rất  nhiều thế hệ người Việt Nam vẫn bị nhầm về lịch sử của lá cờ Việt Nam Tự Do nền vàng ba sọc đỏ, họ cứ tưởng rằng lá cờ này mới có từ thời chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Và  rất nhiều người lầm tưởng như cộng sản tuyên truyền rằng đó là lá cờ “Ngụy”. Nhưng thực chất lá cờ vàng 3 sọc đỏ chính là lá cờ xuất phát lâu đời hơn rất nhiều cờ đỏ sao  vàng của cộng sản và còn là lịch sử của dân tộc. Tuyên truyền chính xác cho người dân về lá cờ sẽ giúp chúng ta có được sự đoàn kết nhất trong việc cùng đứng về phía quốc  gia dân tộc để lật đổ cộng sản.

Trong thời Bắc thuộc, khi Hai Bà Trưng khởi nghĩa chống quân Tô Định năm 40, Hai Bà Trưng đã mặc áo giáp vàng cưỡi voi ra trận dưới bóng cờ vàng. Suốt gần một ngàn  năm Bắc thuộc, lá cờ dân tộc dưới hình thức này hay hình thức khác vẫn xuất hiện trong những cuộc khởi nghĩa chống lại quân Hán như của Bà Triệu, Lý Bôn, Triệu Quang  Phục, nhưng phải đợi đến thời Ngô Quyền đánh tan quân Hán trên sông Bạch Đằng gây dựng nền độc lập năm 938, lá cờ dân tộc mới lại phất phới tung bay. Trải qua các  triều đại tự chủ tiếp theo như Đinh, Lê, Lý, Trần, nước ta luôn có quốc kỳ hình vuông hoặc chữ nhật gồm có nhiều màu viền quanh theo màu của ngũ hành, ngoài cùng là tua  răng cưa và có hình con rồng hoặc một chữ Hán chỉ tên triều đại ngay chính giữa.Và tất cả các lá cờ từ Hai Bà Trưng đến nay đều là lá cờ có nền vàng. Vì màu vàng là màu  quốc thổ và cũng là màu da của giống nòi Việt Nam.Theo vũ trụ quan của người Việt, màu vàng còn thuộc về hành thổ và có vị trí trung ương, tượng trưng cho lãnh thổ và  chủ quyền của quốc gia. Chính vì thế mà vua chúa thời xưa thường xưng là Hoàng Đế và mặc áo có tên Hoàng bào.

Còn về sọc đỏ, màu đỏ thuộc hành hỏa và là màu của phương Nam. Đây là biểu tượng của một dân tộc bất khuất, anh hùng, và độc lập trong cõi trời Nam, tách biệt hẳn với  nước Tàu ở phương Bắc. Ba sọc đỏ còn tượng trưng cho ba miền: Bắc, Trung, và Nam. Tuy gọi là ba miền (ba sọc đỏ) nhưng chúng có cùng chung một nhà (nền vàng). Đó là  nhà Việt Nam, con dân muôn đời thương yêu đùm bọc lẫn nhau.Như vậy là lá cờ có nền Vàng có nguồn gốc lịch sử lâu đời của dân tộc; thứ hai đó là lá cờ nền Vàng 3 sọc đỏ  xuất hiện chính thức lần đầu từ thời Vua Thành Thái cho đến Khải Định. Và lần thứ hai thì lá cờ vàng xuất hiện là thời kỳ Vua Bảo Đại cho đến đệ I, Đệ II Cộng Hòa. Nhưng  xen lẫn giữa hai thời kỳ đó cũng có một lá cờ vàng 3 sọc hình quẻ ly của chính phủ ông Trần Trọng Kim bị cộng sản cướp đoạt trái phép.

Màu vàng là da vàng, sọc đỏ là máu đỏ. Màu vàng biểu tượng của vương quyền phương Nam, hành thổ là đất nuôi sống toàn dân. Ba sọc đỏ tượng trưng cho ba ba kỳ (ba miền) là ba anh em Nam Trung Bắc cùng chung sống hài hòa, an lành trên dải đất Việt Nam. Ba sọc đỏ song song là biểu tượng của ba anh em đồng hành, đồng quyền, tương kính, không được quyền lấn lướt, hà hiếp, hãm hại nhau, cùng chung nhau xây dựng, phát triển, bảo vệ mảnh đất màu vàng Việt Nam để cùng cộng sinh và cộng hưởng. Ba sọc đỏ còn là biểu tượng của tam quyền phân lập (Lập pháp, Hành pháp, Tư pháp) và là ba biểu tượng của Tự do, Dân chủ, Nhân quyền mà Hoa kỳ và các quốc gia tự do đang áp dụng, kể cả VNCH lúc trước.

codantoc (1)

Cờ Việt Nam Tự Do được hun đúc bằng khí thiêng trời đất và tinh thần quật khởi của dân tộc Việt suốt gần hai ngàn năm lịch sử. Nó tượng trưng cho hồn thiêng sông núi, cho vận hội thái hoà, và cho sự thành công vĩnh cửu của giống nòi Việt Nam. Kể từ năm 40 Tây lịch, thời Hai Bà Trưng, lá cờ Việt Nam Tự Do đã được cải tiến để có hình dạng màu sắc như hiện nay. Thật quả là một ý nghĩa cao cả và đáng được hãnh diện. Lá cờ Việt Nam Tự Do đã thăng trầm với lịch sử oai hùng của dân tộc, nhuốm khí thiêng sông núi, tượng trưng cho dân chủ tự do nhân quyền, cho ý chí kiêu hùng của nòi giống Việt, cho thái hòa thịnh trị của muôn dân, và cho đoàn kết trong việc giữ nước và dựng nước của tổ tiên ta.

Như vậy có thể thấy Lá cờ Vàng 3 sọc đỏ chính là lá cờ của Việt Nam Tự Do không phải là của riêng một chế độ hay của riêng một chính phủ nào mà là của chung cho cả dân tộc Việt. Lá Cờ Việt Nam Tự Do là linh hồn của cả dân tộc Việt. Lá cờ còn, chính nghĩa còn. Lá cờ còn, tinh thần chiến đấu còn, vì nó là tín bài để chúng ta nhận diện những người Việt Tự Do. Chỗ nào có lá cờ Việt Nam Tự Do thì chỗ đó có tình thương, có dân chủ, có tự do, và có nhân quyền. Giờ này, đa số nhân dân yêu tự do dân chủ, ở trong nước cũng như ở hải ngoại, mỗi khi nhìn thấy Lá Cờ Việt Nam Tự Do tức là như nhìn thấy vị cứu tinh dân tộc.

Lá cờ Vàng có một ý nghĩa cao cả, và đã thăng trầm với lịch sử oai hùng của dân tộc Việt. Nó nhuốm khí thiêng sông núi, tượng trưng cho Dân chủ, Tự do, Nhân quyền, cho ý chí kiêu hùng của nòi giống Việt, cho thanh bình thịnh trị của muôn dân, và cho đoàn kết dân tộc trong việc giữ nước và dựng nước của tổ tiên ta. Lá Cờ Vàng Quốc Gia Việt Nam là linh hồn của cả dân tộc Việt. Và với ánh sáng của công nghệ thông tin hiện nay, những luận điệu tuyên truyền của cộng sản sẽ ngày càng bị lột trần, ngày tàn của lá cờ đỏ bán nước sắp đến gần để có tự do, dân chủ thực sự cho dân tộc Việt Nam.

Ngày hôm nay, đảng cộng sản Việt Nam không còn gì để biện minh cho những sai lầm, tội ác của mình. Người dân Việt Nam đã hoàn toàn mở mắt khi chứng kiến nước Nhật đổ nát sau năm 1945 khi kết thúc đại chiến thế giới thứ hai đã vươn lên mà cụ thể tuần qua họ đã thử thành công tàu siêu tốc 500 km/h. Trong khi đó thì báo chí cộng sản vẫn đang tự tô vẽ cho chế độ bằng cái tít trên nhiều báo chí của đảng ” Việt Nam hạnh phúc thứ nhì thế giới”. Hạnh phúc ấy được báo đảng lý giải là “không dựa trên sự giàu có mà dựa theo mức tuổi thọ của người dân, độ hài lòng của người dân và chỉ số môi trường. Theo chỉ số này, Costa Rica là quốc gia hạnh phúc nhất thế giới 2014 tiếp theo là Việt Nam.” Xin thử hỏi, người dân nào hài lòng với cuộc sống trong khi hàng ngày có cả chục ngàn dân oan trên khắp các miền tổ quốc đang rên xiết trong vô vọng ?. Xin thử hỏi, chỉ số môi trường và tuổi thọ người dân ra sao trong khi cả nước đầy rẫy những “làng ung thư” và kênh nước đen?. Có lẽ chẳng cần phải nói gì thêm vì chẳng một ai có đầu óc tỉnh táo tin vào cái chỉ số “hạnh phúc” ở một đất nước mà đến cái cột đèn cũng muốn ra đi.

Lúc này đây, Hồn thiêng sông núi đã và đảng hun đúc cho những người dũng cảm hiên ngang ôm lá cờ Vàng Dân Tộc đi giữa phố phường Sài Gòn. Sẽ là quá sớm để nói chúng ta sẽ lật đổ được chế độ cộng sản một sớm một chiều và đem lá cờ Dân Tộc trở lại. Nhưng những tín hiệu vui từ mảnh đất Việt Nam trong gông cùm cộng sản đã cho thấy chúng ta hoàn toàn có thể hi vọng vào một Việt Nam tươi sáng không cộng sản. Ngày đó, chúng ta sẽ siết chặt tay nhau cùng ca vang “Việt Nam quê hương ngạo nghễ” và xung quanh chúng ta là một rừng Cờ Vàng Dân tộc.

Vâng ! Lá cờ đã trở lại, đang trở lại và sẽ trở lại. Đó chính là Cờ Vàng Dân tộc cũng là hạnh phúc đích thực của cả Dân Tộc Việt Nam !

Đặng Chí Hùng
22/11/2014



 Bản để in  Lưu dạng file  Gửi tin qua email  Thảo luận


Những nội dung khác:
Đưa nàng lên đỉnh [15.08.2022 19:48]




Lên đầu trang

     Tìm kiếm 

     Tin mới nhất 
Viết về ngày Quốc Hận, 30-4-1975
Không khiếp nhược như CSVN,Philippines 'thách' Trung Quốc ra tòa quốc tế
Ukraine trước nguy cơ bị đảng Cộng Hòa của Trump bỏ rơi như VNCH thời TT Ford!
Nhiều nước thế giới cấm công dân miền Bắc CHXHCNVN nhập cảnh!
Tưởng niệm tháng tư 75
Nhân dân Pakistan chống Tàu cứu nước: Tấn công tự sát nhằm vào nhóm kỹ sư Trung Quốc, 6 người thiệt mạng
CSBK chứng tỏ tình yêu đối với Nga: đội mưa hiến máu cứu người - Phú Trọng tha thiết mời Putin thăm VN bảo đảm không bị bắt
Bấc Công Diệt Nam Cộng thu hết giang san vào tay BK độc quyền trị quốc bình thiên hạ
CHXHCNVN: Vô địch thế giới sinh viên đại học làm kinh tế: mãi dâm 4 lần được cho học
Ảnh hưởng của Nga đối với phe Trump và đảng Cộng Hoà tại quốc hội làm ngăn chân gói viện trợ vũ khí cho Ukraine để vừa lòng Putin
Nhiều thanh niên Ấn, TQ và VN đang du học, lao động hoặc định cu bị Nga bắt lính đưa ra tiền tuyến
Tưởng niệm cuộc chiến với đại cường TQ anh em môi hở răng lạnh sông liến sông núi liền núi
Tỷ lệ dân số độc thân Việt Nam và Đông Nam Á
Đất nước tiến lên đỉnh cao Mại Dâm chủ nghĩa, hoa hậu, hoa khôi giá cao, hoa hậu thế giới VN cao nhất 200 triệu đồng/phát
Nỗi nhục dân tộc do những công dân gương mẫu CSBV tức CHXHCNVN

     Đọc nhiều nhất 
Tưởng niệm cuộc chiến với đại cường TQ anh em môi hở răng lạnh sông liến sông núi liền núi [Đã đọc: 817 lần]
Ảnh hưởng của Nga đối với phe Trump và đảng Cộng Hoà tại quốc hội làm ngăn chân gói viện trợ vũ khí cho Ukraine để vừa lòng Putin [Đã đọc: 450 lần]
Nhiều thanh niên Ấn, TQ và VN đang du học, lao động hoặc định cu bị Nga bắt lính đưa ra tiền tuyến [Đã đọc: 386 lần]
Không khiếp nhược như CSVN,Philippines 'thách' Trung Quốc ra tòa quốc tế [Đã đọc: 356 lần]
CHXHCNVN: Vô địch thế giới sinh viên đại học làm kinh tế: mãi dâm 4 lần được cho học [Đã đọc: 330 lần]
CSBK chứng tỏ tình yêu đối với Nga: đội mưa hiến máu cứu người - Phú Trọng tha thiết mời Putin thăm VN bảo đảm không bị bắt [Đã đọc: 321 lần]
Bấc Công Diệt Nam Cộng thu hết giang san vào tay BK độc quyền trị quốc bình thiên hạ [Đã đọc: 272 lần]
Tưởng niệm tháng tư 75 [Đã đọc: 268 lần]
Viết về ngày Quốc Hận, 30-4-1975 [Đã đọc: 232 lần]
Ukraine trước nguy cơ bị đảng Cộng Hòa của Trump bỏ rơi như VNCH thời TT Ford! [Đã đọc: 230 lần]

Trang chủ :: Tin tức - Sự kiện :: Website tiếng Việt lớn nhất Canada email: vietnamville@sympatico.ca :: Bản sắc Việt :: Văn hóa - Giải trí :: Khoa học kỹ thuật :: Góc thư giãn :: Web links :: Vietnam News in English :: Tài Chánh, Đầu Tư, Bảo Hiểm, Kinh Doanh, Phong Trào Thịnh Vượng :: Trang thơ- Hội Thi Nhân VN Quốc Tế - IAVP :: Liên hệ

Bản quyền: Vietnamville
Chủ Nhiệm kiêm Chủ Bút: Tân Văn.