Việt Nam ngày nay nên học chế độ Việt Nam Cộng Hòa trong cách nhìn về kinh tế thị trường cũng như cách đào tạo, trọng dụng nhân tài.
Nhận định trên được chuyên gia tài chính Bùi Kiến Thành, một Việt kiều Mỹ nay đang sống ở Việt Nam, đưa ra trong cuộc phỏng vấn với BBC ngày 23/4.
Ông Thành cũng cho rằng "dư âm của nền kinh tế tập trung" đang hạn chế sự phát triển của Việt Nam trong thời điểm hiện tại, cũng như trong tương lai.
BBC: Ông có thể cho biết một số đặc trưng của nền kinh tế miền Nam trước năm 1975?
Ông Bùi Kiến Thành: Trước 1975 thì kinh tế miền Nam, dù có những khó khăn do chiến tranh, nhưng vẫn là nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường.
Vì trong bối cảnh chiến tranh nên chính sách thời đó là mở rộng tất cả những gì có thể. Nông nghiệp thì gặp khó khăn về chiến tranh, thương mại cũng chỉ trao đổi hàng hóa, chứ việc phát triển công nghiệp thì chưa được bao nhiêu.
Nhưng nó vẫn là nền kinh tế cho phép nhân dân tự do tham gia, để những người có ý chí muốn làm kinh tế được tạo điều kiện tốt.
Trong những năm dưới Đệ nhị Cộng hòa thì có khó khăn do cơ chế quản lý nhà nước vẫn chưa có những kinh nghiệm trong vận hành kinh tế thị trường, quản lý nhà nước vẫn chưa hoàn toàn trong sáng, vẫn có những nhũng nhiễu của các nhóm lợi ích.
Trước 75 thì kinh tế miền Nam sống nhờ viện trợ hoa kỳ. Mỹ cung cấp cho miền Nam một tài khoản lớn, mỗi năm mấy trăm triệu đôla, mỗi năm nhập khẩu hàng hóa vào Việt Nam rồi chi cho chính phủ, chi cho phát triển.
Với nền Đệ nhị Cộng hòa thì chiến tranh mở rộng và chi phí của bộ máy quân sự Mỹ ảnh hưởng rất nhiều đến kinh tế. Nền kinh tế phát triển ảo, phát triển về hạ tầng chứ không phải phát triển doanh nghiêp để tạo ra công nghệ mới.
Nó có định hướng tốt là nền kinh tế thị trường nhưng không vững chắc, không dựa vào cơ sở kinh tế mà chỉ dựa vào chiến tranh là chính.
Cả Đệ nhất và Đệ nhị Cộng hòa đều không có điều kiện để phát triển hết tiềm năng của một nền kinh tế thị trường, do chiến tranh và việc chuyển đổi qua nền kinh tế kế hoạch tập trung rất là khắc nghiệt.
Nếu so sánh với các nước khác thì Đại Hàn bắt đầu dưới thời Park Chung Hee mới bắt đầu phát triển tốt và đến 70 mới phát triển xa hơn Việt Nam Cộng Hòa.
Không thể so sánh với những nước như Nhật được. Nhật đến năm 70 đã phát triển thành nền kinh tế tiến bộ rồi.
Singapore thời đó cũng chỉ mới bắt đầu có tiến triển dưới thời Lý Quang Diệu và đến 70 thì phát triển xa hơn miền Nam nhiều, vì cả ba nước này không bị ảnh hưởng bởi chiến tranh.
BBC: Xu hướng phát triển của Việt Nam Cộng Hòa sẽ như thế nào nếu được phát triển trong hòa bình, thưa ông?
Ông Bùi Kiến Thành: Nói chung nền kinh tế Việt Nam Cộng Hòa là một nền kinh tế thị trường có nhiều tiềm năng, nếu được phát triển trong hòa bình thì sẽ có nhiều khả năng phát triển tốt hơn là chính sách phát triển tập trung sau 30/4/1975.
Nếu Việt Nam có hòa bình thì những chính sách phát triển kinh tế bắt đầu từ nền Đệ nhất Cộng hòa vẫn được duy trì, như khu công nghiệp Biên Hòa, các trung tâm phát triển công nghiệp. Khi đó chúng ta học dần dần thì bắt đầu tích lũy kinh nghiệm và bắt đầu đi lên.
Tuy nhiên, sau 30/4 thì tất cả những kinh nghiệm đó bị chặn đứng, áp dụng kế hoạch tập trung của miền Bắc vào miền Nam, bao nhiêu doanh nghiệp bị quốc hữu hóa, doanh nhân thì vào trại cải tạo hoặc bỏ xứ ra đi.
Nền kinh tế tan vỡ ra hết và nền kinh tế tập trung không phát triển được, việc ngăn sông cấm chợ khiến nền kinh tế đi vào ngõ cụt.
Đến khi đó nhà nước cộng sản mới áp dụng chinh sách Đổi Mới. Nhưng Đổi Mới không phải là kinh tế thị trường mà là nền kinh tế 'nhiều thành phần vận hành theo kinh tế thị trường dưới sự quản lý của nhà nước".
Cho đến nay định nghĩa của nền kinh tế Việt Nam sau Đổi Mới vẫn chưa có gì mới hơn là định nghĩa năm 1986, là kinh tế nhiều thành phần có sự quản lý của nhà nước.
Vì vậy nên đến 2015, chúng ta vẫn bị sự chi phối nặng nề của các doanh nghiệp nhà nước, không thoát ra được tư duy kế hoạch tập trung của một số lãnh đạo, và không thoát ra khỏi sự vận hành của kinh tế nhà nước, trì trệ và không có hiệu quả.
Từ năm 1985 đến giờ ta không bắt kịp các nền kinh tế khác vì tư duy không rõ ràng, không ai biết kinh tế xã hội chủ nghĩa là cái gì.
Một mặt thì nói là kinh tế thị trường, một mặt thì nói là có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Chúng ta đã mất hết 30 năm mà vẫn còn loay hoay trong những việc làm không rõ ràng.
BBC: Liệu chính phủ ngày nay có thể học được gì từ chính sách kinh tế miền nam trước 1975 thưa ông?
Ông Bùi Kiến Thành: Thứ nhất là kinh tế là việc của nhân dân chứ không phải của chính phủ, chính phủ không làm kinh tế. Đó là bài học lớn nhất.
Phải bỏ tập quán chính phủ đi làm kinh tế. Đã có định hướng như thế rồi nhưng chính phủ Việt Nam vẫn chưa ra khỏi vấn đề tư duy kinh tế nhà nước.
Thứ hai là các nhóm lợi ích của thành phần cầm quyền có ảnh hưởng rất lớn về vấn đề lợi ích trong nền kinh tế, khiến nền kinh tế bị khống chế bởi một nhóm lợi ích, khó mà phát triển được.
Kinh tế làm sao phải lan tỏa được để mọi người có thể tham gia, làm sao để tổ chức mà cả hệ thống chính trị, hệ thống hành chính tạo điều kiện cho người dân tham gia bình đẳng vào vấn đề kinh tế.
Ở miền Nam khi đó không có vấn đề là đảng viên thì hay ở trong hệ thống tổ chức nào mới được trọng dụng.
Đến bây giờ chúng ta thấy rằng về vấn đề quản lý nhà nước, toàn thể Việt Nam vẫn ở trong hệ thống Đảng Cộng sản, không phải đảng viên thì không được gì, mà chưa hẳn là 4 triệu đảng viên cộng sản đã là tinh túy nhất của toàn dân Việt Nam, nên nó hạn chế việc đào tạo lãnh đạo quản lý nhà nước.
Chúng ta chưa thực sự mở cửa đào tạo, có hệ thống giáo dục tân tiến.
Đi vào đại học thì học những chuyện đã cũ rích rồi, từ những sách tiếng Anh dịch ra cho học sinh học mà thầy giáo đọc còn chưa hiểu, trong khi ở những nước khác, sinh viên học trên internet các dữ liệu, kiến thức mới.
Hệ thống giáo dục của Việt Nam chưa thể đưa những kinh nghiệm hay kiến thức mới vào nền giáo dục kịp thời, nên chúng ta đào tạo ra các sinh viên không đủ năng lực đi vào thực tế, đi vào xã hội.
Các doanh nghiệp khi thuê từ đại học ra phải đào tạo lại cho phù hợp với doanh nghiệp mình, nên tốn gấp đôi thời gian và tiền.
Bên cạnh đó, Việt Nam bây giờ còn có cái đại nạn là phải đi mua việc. Điều đó tạo ra vấn đề là những cán bộ làm việc trong cơ quan nhà nước không phải do năng lực. Những chuyện đó hạn chế chất lượng quản lý nhà nước của Việt Nam.
Ở miền Nam trước 75 thì là một nền giáo dục rất mở, người sinh viên và các thầy giáo được quyền tiếp cận các nền giáo dục tư tưởng, dù là tư bản hay cộng sản, không hạn chế.
Giáo dục miền Bắc khi đó chỉ có Marxist thôi, không được đọc sách báo, không nghe về tư bản chủ nghĩa, không nghe BBC, radio thì bị khóa không được mở các tần số đấy.
Giờ thì trong trường đại học mở ra nhiều hướng để sinh viên tiếp cận, ví dụ như Internet. Nhưng giáo trình thì không bao nhiêu, vì các thầy cũng có được học đâu, các thầy cũng học trong cơ chế xã hội chủ nghĩa bao năm nay rồi, nên việc đào tạo các thầy trước rồi đào tạo sinh viên sau khiến nền giáo dục bị chậm trễ.
Dư âm của một nền văn hóa tập trung vẫn khiến Việt Nam bị hạn chế cho đến nay.
'Ý thức về tự do đã ăn sâu vào miền Nam'
Ý thức về tự do và kinh tế thị trường đã ăn sâu vào xã hội miền Nam Việt Nam, giúp nơi đây trở thành bàn đạp cho Đổi Mới.
Nhận định trên được một người làm việc ở Sài Gòn trước 1975 nói với BBC trong dịp đánh dấu 40 năm kết thúc chiến tranh Việt Nam.
Ông Nguyễn Xuân Nghĩa, từng là phụ tá Tổng trưởng Tài chính thời chính quyền Việt Nam Cộng Hòa, trao đổi với BBC từ California, Hoa Kỳ. Ông cho rằng chính sách viện trợ của Hoa Kỳ không những không giải quyết được các vấn đề của miền Nam thời bấy giờ, mà còn gây thêm nhiều khó khăn.
BBC:Ông đánh giá thế nào về tính tự do, mở cửa của nền kinh tế miền Nam thời bấy giờ, thưa ông?
Ông Nguyễn Xuân Nghĩa: Có lẽ nên đặt trong hoàn cảnh của thập niên 60 của thế giới lúc đó và cái thứ nhì là hoàn cảnh riêng của Việt Nam.
Lần đầu tiên sau năm 1883 đến 1955 mới có một nước Việt Nam độc lập và bắt đầu bước qua chuyện thế nào là dân chủ, thế nào là kinh tế thị trường.
Trong bối cảnh đó, tôi nghĩ miền Nam, nhất là nền Đệ nhất Cộng hòa, đã có những thành quả lớn, so với thời thực dân Pháp cai trị đất nước ta với nền kinh tế chỉ huy của họ.
Nền kinh tế với dân số 15 triệu đã phải tiếp nhận gần 2 triệu người dân di cư từ miền Bắc vào, phải xây dựng lại một hệ thống kinh tế và hành chính khác hẳn những gì nước Pháp để lại.
Trong giai đoạn đó, mức độ tự do kinh tế so với miền Bắc, chứ tôi chưa nói là các nước khác, thì những cải cách như đạo luật cải cách ruộng đất ban hành năm 1956 đã là một bước tiến đáng kể.
Bước sang nền Đệ nhị Cộng hòa thì một nửa đất nước lâm vào cảnh chiến tranh toàn diện, do những người cộng sản tổ chức ngay trong ruột của miền Nam.
Tình trạng chiến tranh ngày càng rộng mở từ năm 1965 trở đi thì miền Nam càng mất khả năng giải quyết những vấn đề kinh tế của mình, từ chuyện ruộng đất, canh tác để nuôi sống khoảng 18 triệu người.
Nhưng trong giai đoạn đó thì chính quyền của nền Đệ nhị Cộng hòa vẫn cố gắng làm được chuyện rất lạ, là xây dựng nền kinh tế thị trường, và thúc đẩy điều lớn lao hơn nền Đệ nhất Cộng hòa là đạo luật cải cách ruộng đất ngày 26/3 năm 1970, với tên gọi "Người cày có ruộng".
Đạo luật này đã giải quyết được vấn đề công ăn việc làm và hữu sản hóa cho 1 triệu rưỡi người nông dân miền Nam lúc đó.
Trong hoàn cảnh đó, nhất là sự ngu xuẩn trong chính sách viện trợ của Mỹ, mà miền Nam vẫn làm được những điều đó.
Nếu nền Đệ nhất cộng hòa gặp áp lực từ người Bắc di dân vào thì Đệ nhị Cộng hòa cũng phải đón nhận hoàn cảnh tương tự.
Năm 1972, quân đội miền Bắc đánh vào phía nam của vĩ tuyến 17, khiến bao người trôi dạt vào phía trong nam mà miền nam vẫn phải trợ cấp, tạo công ăn việc làm cho họ, trong bối cảnh Mỹ đã tháo chạy.
Trong hoàn cảnh đó mà vẫn còn giữ được mấy năm nữa thì tôi nghĩ thuần về kinh tế mà nói là cả nền Đệ nhất và Đệ nhị Cộng hòa đã giải được những bài toán kinh tế mà tôi cho là nhiều quốc gia như Nam Hàn, Thái Lan, Philippines nếu rơi vào trong hoàn cảnh tương tư chưa chắc đã giải quyết được.
Người ta cứ nói là do viện trợ Mỹ nhưng không phải. Chính viện trợ Mỹ là yếu tố khiến miền Nam không đương cự nổi với tình thế chiến tranh.
BBC:Theo ông thì những chính sách tiến bộ nào của miền Nam thời đó có thể so sánh được với Nam Hàn hay Nhật Bản trong thời kỳ các nước này mới trỗi dậy?
Ông Nguyễn Xuân Nghĩa: Một cái khá cụ thể là nói đến mức sống của người dân thực sự thời đó khá tương đối, nếu so sánh với trường hợp của Nam Hàn, Philippines hay Đài Loan.
Miền Nam lúc đó cũng đã có một số công ty quốc doanh bị buộc phải giải tư, hệ thống kinh tế do chính quyền kiểm soát phải bước sang nền kinh tế cho tư nhân.
Trong lĩnh vực của tôi khi tiếp xúc làm việc với đối tác Đài Loan, Nam Hàn thì họ theo dõi các chính sách của miền Nam có sự tôn kính, khâm phục. Hai bên đều xem nhau là đang trước áp lực của cộng sản mà phải giải quyết các vấn đề kinh tế.
Tuy nhiên chiến sự tại nam Việt nam ngày càng bùng phát dữ dội, không như hai nơi cũng bị áp lực của chiến tranh là hai Nam Hàn, Đài Loan.
Điều đó không chỉ bắt đầu từ việc chế độ Ngô Đình Diệm bị lật đổ, mà còn do tướng tá bắt đầu làm loạn từ năm 1963, khiến nền kinh tế không thể sinh hoạt bình thường như Nam Hàn hay Đài Loan, khiến miền Nam dựa vào hệ thống viện trợ của Hoa Kỳ.
Chúng ta thấy như ở Iraq hay Afghanistan là viện trợ không giúp cho quốc gia cầu viện giải quyết những vấn đề của mình, vì nó tùy thuộc vào chính sách quốc gia cấp viện khi đó. Viện trợ để giải quyết vấn đề của nước Mỹ, chứ không giải quyết vấn đề của nước nhận viện trợ.
BBC:Ông có tin rằng nếu có cơ hội tồn tại, Việt Nam Cộng hòa có thể sánh ngang với các cường quốc châu Á ngày nay?
Ông Nguyễn Xuân Nghĩa: Tôi nghĩ điều đó là vấn đề giả định về lịch sử mà không xảy ra được. Thực tế ra lúc đó các quốc gia đều nghĩ rằng miền Nam là trù phú. Miền Nam có những tài nguyên, điều kiện khá hơn các nước khác như Nam Hàn, Đài Loan, Thái Lan, Philippines.
Nếu chiến sự lắng đọng trong 6 tháng thì miền Nam đã có thể tự túc về lúa gạo và lắng đọng 1 năm thì có thể trở về vị trí xuất cảng về gạo.
Ý thức về tự do và kinh tế thị trường đã ăn sâu vào xã hội ở miền nam.
Không khí, tinh thần kinh doanh, làm việc ở miền nam là điều còn kế thừa được sau một giai đoạn ngắn ngủi, đầy tai ương, chết chóc.
Bây giờ cũng vậy, những người ưu tú nhất của miền bắc cũng đi vào trong nam và tìm đến không khí tự do, cởi mở, thông thoáng, rộng rãi. Đó là di sản mà người ta cứ tưởng đã mất, nhưng vẫn còn đó.
Đó là đóng góp của miền Nam, vùng đất nhiều vấn đề, tai ương, nhưng cũng là nơi cho nhiều cơ sở để có thể bùng lên sau thời kỳ Đổi Mới.
“…Họ đã từ chối bàn giao, họ từ chối quản lý đất nước và xã hội theo chiều hướng văn minh, mà họ đã chọn một hướng đi "càng đi càng tăm tối", đưa đất nước và dân tộc vào cuộc thử nghiệm điên rồ nhất trong lịch sử nhân loại…”
Phương Tây có những triết lý thú vị, thí dụ như Qui Perd Gagne, dịch từng chữ là Người Thua Thắng. Bề ngoài thì quả đúng là có phần Chí Phèo, AQ. Nhưng trong sâu thẳm chứa đựng triết lý riêng của nó. Ở nhiều tình huống, đôi khi những bất lợi trở thành lợi thế. Vì thế tôi hay diễn giải triết lý này thành : Ai biết thua, người đó sẽ thắng.
Trong những ngày này, tôi lại hay nghĩ đến triết lý nói trên.
Tôi xin được gọi ngày 30/4/1975 là ngày Việt Nam Cộng Hòa thua trận. Hãy ghi nhớ như vậy và hành động như người Nhật đã làm sau Thế chiến thứ hai. Những đối thủ nào tuyên bố sau trận đấu : hôm nay tôi thua, thì ắt hẳn trong họ ấp ủ một niềm tin chiến thắng.
"Khi cánh cửa mở ra, thấy chúng tôi bước vào phòng, không ai bảo ai nhưng tất cả đều đứng dậy, hơi cúi đầu xuống, có lẽ là chờ lệnh của chúng tôi. Một người cao lớn, mặt vuông chữ điền, dáng vạm vỡ, đeo kính cận, mặc quân phục màu rêu bước đến trước mặt tôi. Ông Nguyễn Hữu Hạnh chỉ vào người đó giới thiệu: Báo cáo cấp chỉ huy, đây là Tổng thống Dương Văn Minh". Sau đó tôi thấy một người thấp, đậm, mặc bộ đồ com-lê màu đen, đeo kính cận cũng đến trước mặt tôi, ông Hạnh giới thiệu: "Đây là Thủ tướng Vũ Văn Mẫu". Mẫu hơi cúi đầu chào chúng tôi. Sau đó Dương Văn Minh lại bước thêm một bước nữa về phía chúng tôi nói: "Báo cáo cấp chỉ huy, chúng tôi đã biết Quân giải phóng tiến công vào nội đô, chúng tôi đang chờ Quân giải phóng vào để bàn giao". Nghe thấy vậy, tôi liền tuyên bố dứt khoát: "Các ông đã bị bắt làm tù binh, các ông phải tuyên bố đầu hàng vô điều kiện, không có bàn giao gì cả". Thấy tôi nói vậy, cả phòng im lặng. Dương Văn Minh và Vũ Văn Mẫu cùng số người trong phòng lùi về ngồi vào ghế. Dương Văn Minh có lẽ bị hẫng vì định giữ thế chủ động ra vẻ thiện chí bàn giao lại chính quyền, thành ra bị động, lúng túng đành cúi đầu chờ đợi".
Tôi cố ý trích lại toàn bộ đoạn văn miêu tả thời khắc đặc biệt của ngày 30/4 năm ấy. Đoạn văn được viết bởi người bên thắng cuộc và định miêu tả thế hiên ngang của người chiến thắng và thế thảm bại của người thua trận. Nhưng với tôi nó lại có tác dụng ngược lại. Chỉ bằng vài câu nói và hành động, mỗi bên đã thể hiện đúng bản chất của thể chế mình đại diện. Một bên chỉ biết đánh nhau, bên kia "ngây thơ" nghĩ rằng việc quản lý và điều hành một xã hội cần phải được tiếp nối và cần phải được bàn giao. (Không có bàn giao nên ông Thiệu bị oan nhiều năm về 16 tấn vàng.)
Nội các cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa đã xử sự đúng và văn minh khi biết mình là người thua cuộc.
Tôi đã từng nghĩ 30/4 đằng nào rồi nó cũng đến. Thà nó đến chỉ hai năm sau Hiệp định Paris như đã xảy ra còn hay hơn nó kéo dài thêm vài năm nữa. Càng kéo dài, máu đỏ da vàng càng đổ nhiều, đổ trên cả hai miền. Lật xác thù lên, toàn mặt người Việt Nam ta đó. "Thà hy sinh tất cả, thà đốt sạch cả dãy Trường Sơn", một bên bằng mọi giá quyết đánh bại phía bên kia. Trận chiến Thành Quảng Trị, Mậu thân 68 minh chứng rằng họ sẽ hành động như thế đấy.
Đến đây tôi lại nhớ lại những câu hát trong Quê hương đau nặngcủa Khánh Ly và Trịnh Công Sơn : "Bao nhiêu năm còn nô lệ Anh em ta nhận vũ khí Quê ta bãi hoang chiến trường diệt nhau như thú Trôi bao nhiêu dòng máu đỏ Bao yêu thương lùi trong quá khứ Ôi giấc mơ thanh bình còn quá xa. Ôi gian nan đời nước nhỏ Sao đau thương nhiều lắm thế Quê hương bây giờ những ngày điêu tàn còn đó Cùng ghi nhớ Những phố phường kia đã lên mộ bia Dân ta chết trong ngẩn ngơ.Quê hương ta giờ đau nặng Bao hy sinh thật quá lớn Tôi đi giữa những căm hờn đành không lên tiếng.Trong tim đau từng vết đạn Câu than van nhiều khi dấu kín Ai khoe khoang dân mình đã chết oan".
Ai biết thua, người đó sẽ thắng miễn là đừng bỏ cuộc.
Những mầm mống dân chủ, những chồi non tự do, những tiềm năng phát triển đã ra đi cùng với sự sụp đổ của Việt Nam Cộng Hòa. Đành rằng lúc đó, Việt Nam Cộng Hòa chưa phải là một chế độ dân chủ hoàn chỉnh, nhưng điều không thể bác bỏ đó là một chế độ đang trên đường tiến tới một xã hội văn minh hơn, nhân bản hơn. Lúc này đây, không chỉ những người phía "bên kia" cỗ vũ và ủng hộ nó mà còn cả những thanh niên trẻ ở phía "bên này", những người sinh sau cái mốc 30/4 đó. Dũng Phi Hổ, quê Nghệ An, quê của Nguyễn Ái Quốc, quê hương cách mạng nhé, chứ không phải ở xứ đạo nào đó để dễ bị chuốc lấy cái tội bị mua chuộc.
Bất lợi của Việt Nam Cộng Hòa đang trở nên lợi thế, không hẳn hoàn toàn là do Việt Nam Cộng Hòa đã gìn giữ và giành lấy được mà một phần lớn là do sự "tiếp sức" từ những yếu kém của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa và Đảng Cộng sản Việt Nam. Họ đã từ chối bàn giao, họ từ chối quản lý đất nước và xã hội theo chiều hướng văn minh, mà họ đã chọn một hướng đi "càng đi càng tăm tối", đưa đất nước và dân tộc vào cuộc thử nghiệm điên rồ nhất trong lịch sử nhân loại.
Đến đây và cuối cùng, tôi lại nghĩ đến ra một triết lý tương tự khác : kẻ nào huyênh hoang trong chiến thắng, sẽ có lúc chuốc lấy thất bại thảm hại.
Đặng Xương Hùng
24/4/2015
Kiều hối về VN đã được dùng làm gì?
Một tồn tại đang đặt ra là tuy nguồn kiều hối dồi dào như vậy song chủ yếu đang đổ vào bất động sản hoặc các kênh gửi tiết kiệm, ít đi vào sản xuất.
LTS: Kiều bào luôn là một lực lượng hùng hậu đóng góp cho phát triển đất nước ở nhiều lĩnh vực kinh tế, xã hội, giáo dục. Vai trò đó còn được đo lường qua dòng kiều hối gửi về nước suốt thời gian qua, đặc biệt trên địa bàn thành phố HCM. Bởi vậy, sẽ là rất cần thiết để cùng nhìn lại những đóng góp của bà con kiều bào, đặc biệt từ góc độ kiều hối.
Bản đồ kiều hối
“TP.HCM hiện đang có một Hiệp hội khởi nghiệp, tiền thân của hiệp hội này là hàng trăm, nghìn DN tư nhân, dân doanh được thành lập từ nguồn kiều hối của kiều bào nước ngoài gửi về viện trợ cho bà con trong nước suốt nhiều thập kỷ qua”, chuyên gia tài chính Bùi Kiến Thành chia sẻ.
Theo ông Thành, nguồn kiều hối khác hẳn với tiền ODA hay FDI của nước ngoài vào Việt Nam. Đây là số tiền của bà con sống ở nước ngoài, bà con đi lao động ở nước ngoài gửi về… đó là nguồn tiền không hoàn lại. Trong khi đó, ODA không phải là khoản tiền cho không, biếu không, mà là cho vay dài hạn, còn FDI là đầu tư nhằm mục đích kinh doanh, kiếm lời, và cuối cùng sẽ chuyển trả về nước ngoài.
Ảnh minh họa: CafeF
Cùng với dòng lao động dịch chuyển từ trong nước xuất khẩu sang nước ngoài và lượng kiều bào đông đảo ở khắp nơi trên thế giới, hơn hai mươi năm nay, lượng kiều hối về Việt Nam tăng trưởng bình quân hằng năm hơn 38%, theo thống kê của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) trong “Nghiên cứu về toàn cảnh kiều hối tại Việt Nam và những đóng góp cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước” mới công bố. Theo con số chính thức tính đến quý một năm nay, tổng lượng kiều hối về VN đạt hơn 90 tỷ USD. Con số này chỉ sau nguồn vốn đầu tư trực tiếp (FDI) vào VN và lớn hơn nguồn viện trợ phát triển ODA đã giải ngân.
Khảo sát của CIEM cũng chỉ ra, có những giai đoạn như từ năm 2004-2006, kiều hối thậm chí còn là nguồn vốn lớn nhất của đất nước. Hoa Kỳ là quốc gia chuyển kiều hối về VN nhiều nhất, trong ba năm trở lại đây chiếm 57% tổng kiều hối chính thức. Tiếp theo là Úc, Canada, Đức, Campuchia và Pháp…
Riêng tại TP.HCM, địa phương tiếp nhận kiều hối lớn nhất cả nước, theo NH Nhà nước chi nhánh TP.HCM, kiều hối chuyển về các NH trên địa bàn TP.HCM năm 2014 đã tăng 200-300 triệu USD so với năm ngoái, đạt 5 tỉ USD. Những dòng vốn này thật sự đã có tác động lớn với các cá nhân nhận tiền nói riêng, cũng như sự phát triển của thành phố nói chung.
Lý giải nguyên nhân kiều hối đổ về thành phố ngày càng tăng, đại diện NH Nhà nước chi nhánh TP.HCM cho rằng, là do số kiều bào và lao động xuất khẩu tăng lên, cộng với nhiều chính sách thông thoáng của nhà nước.
Hiện nay có 4,5 triệu người Việt đang sinh sống tại trên 100 quốc gia trên thế giới. Ngoài ra có khoảng nửa triệu công nhân Việt Nam đang làm việc ở nhiều nước và vùng lãnh thổ như Malaysia, Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc… qua chương trình xuất khẩu lao động. Đây là lực lượng chủ lực “kiếm tiền gửi về nước”. Bên cạnh đó, trong những năm qua, nhà nước có chủ trương khuyến khích kiều bào về nước đầu tư; cho phép gửi và nhận kiều hối bằng ngoại tệ, không bắt buộc phải gửi tiết kiệm vào ngân hàng hoặc bán cho ngân hàng. Mặt khác, dịch vụ chuyển kiều hối qua kênh chính thức rất phát triển với sự tham gia của nhiều ngân hàng, doanh nghiệp với tính chất cạnh tranh rất cao.
Kiều hối về VN đã được dùng làm gì?
Ông Võ Trí Thành, phó Viện trưởng Viện quản lý kinh tế Trung ương, một trong hai thành viên tham gia xây dựng nghiên cứu về kiều hối, cho hay, tỉ trọng người nhận kiều hối có mục đích chi tiêu hằng ngày lên tới 35,4% tổng lượng kiều hối. Như ở TP.HCM, trong ba năm gần đây tỉ trọng này chiếm 45% tổng lượng kiều hối.
Còn kiều hối đầu tư vào sản xuất - kinh doanh nói chung chiếm khoảng 16% như sản xuất và dịch vụ: 30% đầu tư vào bất động sản, vàng chiếm khoảng 20%...
Có tới 11% tổng kiều hối được gửi tiết kiệm để lấy lãi, còn sử dụng cho các mục đích như chữa bệnh, đi học, trả nợ... chỉ 7-10%.
Ông Nguyễn Hoàng Minh - phó giám đốc NH Nhà nước chi nhánh TP.HCM, nhận định: “Đang có sự dịch chuyển qua lại giữa các kênh đầu tư. Cụ thể theo báo cáo từ các NH trên địa bàn thành phố, năm 2014 có 71,4% lượng kiều hối chảy vào sản xuất, kinh doanh (lĩnh vực này năm 2013 là 70,2%), lĩnh vực bất động sản chiếm 22,1%, còn lại dùng vào hỗ trợ, chi tiêu gia đình”.
Còn theo ông Vũ Hồng Nam, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, chủ nhiệm Ủy ban Nhà nước về người VN ở nước ngoài: Kiều hối ngày càng được sử dụng có hiệu quả hơn.
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang gặp gỡ Việt kiều. Ảnh: Thanh niên
Khảo sát năm 2014 cho thấy tại TP.HCM, nơi tiếp nhận một nửa kiều hối của cả nước cho thấy, 72% kiều hối đầu tư cho sản xuất, kinh doanh. 22 % đầu tư vào BĐS Từ chỗ trước đây kiều hối gửi về để giúp đỡ thân nhân thì nay kiều hồi đã chuyển sang góp vốn kinh doanh, góp phần tạo công ăn việc làm cho đất nước trong giai đoạn khó khăn và vực dậy sản xuất trong nước.
Cũng theo ông Nam, hiện nay có khoảng 7.000 Việt kiều đã đăng ký sở hữu nhà tại Việt Nam trực tiếp đứng tên, chưa kể có thể không ít Việt kiều mua nhà nhờ người thân đứng tên.
Nếu năm 2004, số lượng người Việt Nam sống ở nước ngoài khoảng 2,7 triệu người thì sau 10 năm, đến năm 2014 tăng lên 4,5 triệu người tại 109 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới. Trong đó, mỗi năm có khoảng 500.000 Việt kiều về Việt Nam ăn tết cổ truyền.
Ngoài ra, kiều bào còn tham gia đóng góp trong một số hoạt động từ thiện, thiện nguyện. Trong năm 2014, Ủy ban về người Việt ở nước ngoài TP.HCM đã đứng ra vận động, hỗ trợ kiều bào tham gia nhiều hoạt động xã hội từ thiện như ủng hộ học bổng cho học sinh nghèo hiếu học vùng sâu vùng xa, học bổng cho HS-SV vượt khó học giỏi; xây cầu bê tộng, xây nhà tình thương, v.v… Ông Trần Hòa Phương, phó chủ nhiệm Ủy ban cho biết: “Từ các nguồn kiều hối, đã vận động xây dựng được 2 nhà tình thương ở Củ Chi và Bình Chánh, xây 19 cây cầu bê tông ở các tỉnh ĐBSCL với tổng giá trị 3 tỷ đồng”…
Tuy vậy, một tồn tại đang đặt ra là tuy nguồn kiều hối dồi dào như vậy song chủ yếu đang đổ vào bất động sản hoặc các kênh gửi tiết kiệm, ít đi vào sản xuất.
Do vậy, về chính sách lâu dài, ông Bùi Kiến Thành cho rằng, phải coi kiều hối là nguồn tài chính hùng hậu có thể giúp nền kinh tế phát triển thông qua kênh kinh tế dân doanh của mỗi hộ gia đình. Có chính sách ưu đãi đối với kiều hối không kém hơn đối với đầu tư nước ngoài FDI, đồng thời phải có chính sách ứng xử với Việt kiều như thế nào cho phù hợp, tạo được lòng tin.