(GDVN) - Một tờ báo khá lớn ở Đài Loan phụ họa theo luận điệu của truyền thông nhà nước Trung Quốc cũng là một sự lạ, nhưng tư tưởng bành trướng đại Hán thì không lạ.
Chuyến thăm chính thức Hoa Kỳ của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng trở thành tâm điểm chống phá của truyền thông nhà nước Trung Quốc, và bây giờ là truyền thông Đài Loan. Ảnh: Tân Hoa Xã/China Times.
Xung quanh chuyến thăm chính thức Hoa Kỳ của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, tờ China Times xuất bản tại Đài Loan ngày 13/7 có bài xã luận sặc mùi bành trướng đại Hán, tuyên truyền bôi nhọ Việt Nam "đu dây giữa 2 cường quốc Trung - Mỹ", đe dọa quan hệ hợp tác Việt - Mỹ.
Tờ báo này bắt đầu bằng việc xới lại câu chuyện Chiến tranh Việt Nam nhằm ly gián quan hệ Việt - Mỹ: "Thế kỷ 19 một vị Thủ tướng Anh từng nói, nước Anh không có kẻ thù vĩnh viễn, cũng không có bạn bè vĩnh viễn, chỉ có lợi ích dân tộc là vĩnh viễn. Ứng vào quan hệ Việt - Mỹ hiện nay, hai nước 40 năm trước từng xảy ra cuộc chiến tranh đẫm máu khiến 60 ngàn quân Mỹ và 1,1 triệu quân nhân Việt Nam cả hai miền trận vong. Đến nay hai bên gác lại thù xưa, bắt tay hợp tác là để bao vây Trung Quốc trỗi dậy"?!
Lý luận cùn của China Times không khác gì Thời báo Hoàn Cầu từ bên kia eo biển, chụp mũ, ngụy biện cho chính tư tưởng bành trướng đại Hán quá nhiều lần khiến người khác chán không muốn nói. Đánh giá về chuyến thăm Mỹ của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, China Times cho rằng: "Danh nghĩa là đàm phán hợp tác kinh tế, thực chất là thúc đẩy hợp tác sâu sắc về chiến lược song phương".
China Times bóp méo lịch sử, xuyên tạc sự thật rằng: "Việt Nam có hàng ngàn năm nay đều thần phục Trung Quốc, đến thời nhà Minh mới rời khỏi bản đồ Trung Quốc. Thời Chiến tranh Lạnh, đảng Cộng sản Trung Quốc ra sức giúp đỡ Đảng Cộng sản Việt Nam chống Mỹ. Những năm 1970 quan hệ Trung - Mỹ dần được cải thiện, quan hệ Trung - Việt dần xấu đi. Tháng 5 năm ngoái, Trung Quốc hạ đặt giàn khoan 981 ở vùng biển tranh chấp trên Biển Đông (thực tế là vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa Việt Nam, hoàn toàn không tranh chấp) nên một lần nữa dẫn đến các cuộc biểu tình phản đối Trung Quốc".
Đúng là hàng ngàn năm người Trung Quốc qua các triều đại đều có dã tâm thôn tính, xâm lược Việt Nam cho đến khi họ nhận là "đồng chí, anh em" thì dã tâm ấy cũng không có gì thay đổi, mà chỉ biểu hiện dưới những hình thức tinh vi hơn. Có lẽ ban biên tập tờ China Times không được học về lịch sử hoặc chính sử sách của họ đã bị các thế lực chính trị bóp méo nên mới không biết, từ Hán - Đường - Tống - Nguyên - Minh - Thanh - Tưởng - Mao mỗi lần cha ông họ cầm quân xâm lược Việt Nam đều bị đánh cho tơi bời, tan tác.
Dù từng có cả ngàn năm dằng dặc đô hộ Việt Nam, tìm mọi cách đồng hóa và tiêu diệt dân tộc Việt, nhưng dân tộc ấy vẫn cứ trường tồn. Máu đỏ Đằng giang, xương trắng Đống Đa, thua trận viên tướng cầm đầu phải chui ống đồng bắt quân khiêng tháo chạy về nước. Ngay trong thời cận đại, dù các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã chi viện không nhỏ cho Việt Nam trong cuộc kháng chiến thống nhất đất nước, nhưng nó không hoàn toàn vô tư hay chính nghĩa như họ tuyên truyền, mà chỉ "đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng" nhằm bảo vệ chính họ ở phía Nam.
Đã nhắc đến cục diện quan hệ quốc tế đầu những năm 1970, hẳn China Times muốn động tới cú bắt tay lịch sử xuyên Thái Bình Dương giữa Richard Nixon với Mao Trạch Đông và Tuyên bố Thượng Hải. Nhưng tờ báo này đã lờ đi một thực tế, sau cú bắt tay ấy Trung Hoa Dân quốc, tức chính quyền Tưởng Giới Thạch bị hất cẳng khỏi Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc để Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa do Mao Trạch Đông thành lập thế chỗ mới dẫn đến tình cảnh ngày nay của eo biển Đài Loan.
Mao Trạch Đông và Richard Nixon.
Theo Wikipedia, Bắc Kinh và Washington khi đó cũng đã đổi chác trên lưng Việt Nam mà Chu Ân Lai đề nghị người Mỹ không công khai. Để rồi chỉ 2 năm sau, hạm đội 7 ngoảnh mặt làm ngơ cho Trung Quốc cất quân xâm lược nốt nửa phía Tây quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền Việt Nam đang do Việt Nam Cộng hòa đóng giữ.
"Trong chuyến thăm Mỹ lần này ông Nguyễn Phú Trọng nói với AP, Mỹ có trách nhiệm duy trì hòa bình, ổn định ở châu Á, kêu gọi Washington có lập trường cứng rắn, tránh để các nước nhỏ ở Biển Đông bị uy hiếp đe dọa. Trong chiến lược tái cân bằng sang châu Á - Thái Bình Dương của ông Obama, Việt Nam vốn là một quân cờ. Năm ngoái Mỹ dỡ bỏ một phần lệnh cấm vũ khí sát thương với Việt Nam, năm nay lại cân nhắc cung cấp cho Việt Nam các vũ khí tiên tiến là nhằm ý đồ mở rộng chiến tranh ủy nhiệm", China Times tiếp tục luận điệu tuyên truyền xuyên tạc.
Hoa Kỳ và Việt Nam có chung lợi ích trong việc duy trì hòa bình ổn định, tự do an ninh hàng không hàng hải, bảo vệ luật pháp quốc tế, chống dùng vũ lực hay đe dọa vũ lực ở Biển Đông. Có lẽ điều này khiên những kẻ ôm dã tâm bành trướng, muốn xưng hùng xưng bá trong khu vực, hiện thực hóa đường lưỡi bò vô lý và phi pháp cảm thấy khó chịu nên mới điên cuồng cắn phá? China Times tiếp tục xuyên tạc:
"Hà Nội và Washington biến thù thành bạn là nhằm đối phó Trung Quốc (?!) nhưng điều này không giúp gì cho việc duy trì ổn định trục quan hệ Mỹ - Việt - Trung. Việt Nam và Hoa Kỳ lâu nay chia rẽ liên tục trong các vấn đề nhân quyền, thâm hụt thương mại, tôn giáo và tự do ngôn luận.
Trong tiến trình thúc đẩy hợp tác chiến lược, nếu Mỹ yêu cầu Việt Nam mở cửa các căn cứ quân sự, hải cảng quân sự sẽ càng tạo ra đối đầu và hiểu lầm giữa Trung Quốc với Việt Nam, Việt Nam càng phải đối mặt với nguy cơ bạo phát Cách mạng Màu trong nước. Trước khi ông Nguyễn Phú Trọng đi Mỹ khoảng 1 tuần, Trung Quốc lại kéo giàn khoan 981 ra vùng chồng lấn giữa 2 nước ở Biển Đông là có thông điệp cảnh cáo"?!
Việc trong quan hệ bang giao giữa 2 nước còn những khác biệt là chuyện hiển nhiên, điều cốt lõi là 2 bên thiện chí ngồi lại với nhau tìm cách khai thác điểm chung, hạn chế bất đồng, mang lại lợi ích thiết thực cho người dân hai nước. Quan hệ Việt - Mỹ cũng vậy, Mỹ - Trung, Việt - Trung hay với bất cứ quốc gia nào cũng không khác.
Còn nỗi sợ của China Times rằng Mỹ có thể đặt căn cứ quân sự tại Việt Nam để uy hiếp Trung Quốc chỉ là "thần hồn nát thần tính", bởi điều này Việt Nam khẳng định rõ từ lâu, Hoa Kỳ hiểu và tôn trọng điều đó. Cái gọi là Cách mạng Màu, người Trung Quốc hãy tự đóng cửa giải quyết vấn đề của mình trước khi ngồi "lo" cho nước khác.
China Times cũng đã thừa nhận một thủ đoạn nham hiểm và đê tiện hiếm khi nào người ta sử dụng trong quan hệ bang giao, nhất là đối với láng giềng mà tờ China Times vẫn nhắc lại "16 chữ Vàng và 4 tốt" (phương châm 16 chữ và quan hệ 4 tốt), đó là vụ giàn khoan 981 vừa qua. China Times đã tự vạch trần bản chất rồi thiết nghĩ không cần nói gì thêm nữa.
"Kinh tế Việt Nam lâu nay vẫn phụ thuộc vào Trung Quốc, năm ngoái tổng kim ngạch thương mại song phương vượt qua 80 tỉ USD, dự kiến năm 2017 có thể lên đến 100 tỉ USD, cao hơn nhiều so với 36 tỉ USD tổng kim ngạch thương mại Việt - Mỹ. 30% sản phẩm nhập khẩu hàng năm của Việt Nam đến từ Trung Quốc, bởi vậy Việt Nam thực tế không có thực lực để chống lại Trung Quốc. Một khi nổ ra xung đột quân sự với Trung Quốc, Việt Nam cầm chắc thất bại"?! China Times đe dọa.
Trung Quốc muốn sử dụng chiêu bài kinh tế để buộc Việt Nam lệ thuộc vào họ là một thực tế. Đó cũng là một trong những lý do chính khiến Việt Nam phải đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ đối ngoại, tránh để lệ thuộc vào bất kỳ nước nào, đặc biệt là Trung Quốc.
Thông thường những luận điệu bôi nhọ Việt Nam hoặc chống phá kịch liệt quan hệ Việt - Mỹ thường chỉ thấy ở các hãng truyền thông nhà nước Trung Quốc. Việc một tờ báo khá lớn ở Đài Loan phụ họa theo luận điệu của truyền thông nhà nước Trung Quốc cũng là một sự lạ, nhưng tư tưởng bành trướng đại Hán thì không lạ. Hồng Thủy
VIỆT NAM TRONG CHIẾN LƯỢC CỦA TRUNG QUỐC
Những hành động thù địch công khai của những người lãnh đạo Trung Quốc đối với Việt Nam, mà đỉnh cao là cuộc chiến tranh xâm lược của họ ngày 17 tháng 2 năm 1979, đã làm cho dư luận thế giới ngạc nhiên trước sự thay đổi đột ngột về chính sách của Trung Quốc đối với Việt Nam.
Sự thay đổi đó không phải là điều bất ngờ, mà là sự phát triển lô-gích của chiến lược bành trướng đại dân tộc và bá quyền nước lớn của những người lãnh đạo Trung Quốc trong 30 năm qua.
Trên thế giới chưa có những người lãnh đạo một nước nào về mặt chiến lược đã lật ngược chính sách liên minh, đổi bạn thành thù, đổi thù thành bạn nhanh chóng và toàn diện như những người lãnh đạo Trung Quốc.
Từ chỗ coi Liên Xô là đồng minh lớn nhất, họ đi đến chỗ coi Liên Xô là kẻ thù nguy hiểm nhất.
Từ chỗ coi đế quốc Mỹ là kẻ thù nguy hiểm nhất mà bản chất không bao giờ thay đổi, họ đi đến chỗ coi đế quốc Mỹ là đồng minh tin cậy, câu kết với đế quốc Mỹ và trắng trợn tuyên bố Trung Quốc là NATO (1) ở phương đông.
Từ chỗ coi phong trào giải phóng dân tộc ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ la tinh là “bão táp cách mạng” trực tiếp đánh vào chủ nghĩa đế quốc và cho rằng rốt cuộc sự nghiệp cách mạng của toàn bộ giai cấp vô sản quốc tế sẽ tuỳ thuộc vào cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân ở khu vực này (2), họ đi đến chỗ cùng với đế quốc chống lại và phá hoại phong trào giải phóng dân tộc, ủng hộ những lực lượng phản động, như tên độc tài Pinôchê ở Chilê, các tổ chức FNLA và UNITA do Cục tình báo trung ương Mỹ (CIA) giật dây ở Angôla, vua Palêvi ở Iran, nuôi dưỡng bè lũ diệt chủng PônPốt-Iêngxary v..v…Họ ngang nhiên xuyên tạc nguyên nhân và tính chất của các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trên thế giới hiện nay, coi các cuộc đấu tranh này là sản phẩm của sự tranh giành bá quyền giữa các nước lớn, chứ không phải là sự nghiệp cách mạng của nhân dân các nước.
Cùng với sự lật ngược chính sách liên minh của họ trên thế giới là những cuộc thanh trừng tàn bạo và đẫm máu ở trong nước, đàn áp những người chống đối, làm đảo lộn nhiều lần vai trò của những người trong giới cầm quyền. Có người hôm nay được coi là nhà lãnh đạo cách mạng chân chính, ngày mai trở thành kẻ thù, kẻ phản bội của cách mạng Trung Quốc; có người trong vòng mấy năm lần lượt bị đổ và được phục hồi đến hai ba lần.
Chiến lược của những người lãnh đạo Trung Quốc có những thay đổi rất lớn. Nhưng có một điều không thay đổi: đó là mục tiêu chiến lược muốn nhanh chóng đưa Trung Quốc trở thành một cường quốc bậc nhất thế giới và thực hiện mưu đồ bành trướng đại dân tộc và bá quyền nước lớn của họ đối với các nước khác.
Tại Hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc năm 1956, Chủ tich Mao Trạch Đông đã nói:
“Chúng ta phải trở thành quốc gia hàng đầu về phát triển văn hoá, khoa học kỹ thuật và công nghiệp…Không thể chấp nhận rằng sau một vài chục năm, chúng ta vẫn chưa trở thành cường quốc số một trên thế giới”
Sau đó, tháng 9 năm 1959, tại Hội nghị của Quân uỷ trung ương, chủ tịch Mao Trạch Đông lại nói:
“Chúng ta phải chinh phục trái đất. Đó là mục tiêu của chúng ta”
Ngay từ khi thành lập nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa tháng 10 năm 1949, những người cầm quyền ở Bắc Kinh đã bắt tay đẩy mạnh việc thực hiện mục tiêu chiến lược của họ. Mặc dầu nền kinh tế của Trung Quốc còn lạc hậu, từ cuối những năm 1950 họ đã ra sức xây dựng lực lượng hạt nhân chiến lược và hiện nay đang đẩy mạnh việc thực hiện “hiện đại hoá” về quân sự, về sản xuất và tích trữ vũ khí hạt nhân. Trong lĩnh vực kinh tế, điều giống nhau giữa “đại nhảy vọt” năm 1958 và “bốn hiện đại hoá” mới nêu ra vài ba năm nay là cả hai kế hoạch đó đều nhằm mục tiêu chiến lược bành trướng và bá quyền của những người lãnh đạo Trung Quốc.
(2) Cần nhắc lại rằng tại hội nghị đại biểu các Đảng Cộng Sản và Công Nhân tháng 11 năm 1960. Đoàn đại biểu Đảng Cộng Sản Trung Quốc đã đồng ý với nhận định sự phát triển của xã hội loài người.
I- VIỆT NAM TRONG CHIẾN LƯỢC TOÀN CẦU CỦA TRUNG QUỐC
Trong chiến lược toàn cầu của những người lãnh đạo Trung Quốc, nếu họ coi Liên Xô và Mỹ là những đối tượng chủ yếu cần phải chiến thắng, thì họ coi Việt Nam là một đối tượng quan trọng cần khuất phục và thôn tính để dễ bề đạt được lợi ích chiến lược của họ.
Bước vào những năm 1950, khi bắt đầu công cuộc xây dựng lại hòng đưa nước Trung Hoa nhanh chóng trở thành cường quốc trên thế giới, những người lãnh đạo Trung Quốc phải đối phó với cuộc chiến tranh của Mỹ xâm lược Triều Tiên ở phía bắc và mối nguy cơ đe doạ an ninh của Trung Quốc ở phía nam do cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp ở Việt Nam gây ra. Đồng thời đế quốc Mỹ, tên đế quốc đầu sỏ và tên sen đầm quốc tế, thi hành một chính sách thù địch đối với Trung Quốc và đang ra sức tiến hành kế hoạch bao vây, cô lập Trung Quốc.
Cuộc kháng chiến thắng lợi của nhân dân Việt Nam, nhân dân Lào và nhân dân Campuchia chống thực dân Pháp đã đưa đến Hội nghị Giơnevơ năm 1954 về Đông Dương. Pháp lo sợ thắng lợi hoàn toàn của nhân dân Việt Nam sẽ dẫn đến sự sụp đổ của hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc Pháp. Trung Quốc là nước cung cấp nhiều vũ khí nhất cho Việt Nam vào cuối cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp. Những người lãnh đạo Trung Quốc đã lợi dụng tình hình đó để đứng ra làm người thương lượng chủ yếu đối với đế quốc Pháp, câu kết với chúng và cùng nhau thoả hiệp về một giải pháp có lợi cho Trung Quốc và Pháp, không có lợi cho nhân dân Việt Nam, nhân dân Lào và nhân dân Campuchia. Họ đã hy sinh lợi ích của nhân dân ba nước ở Đông Dương để bảo đảm an ninh cho Trung Quốc ở phía nam, để thực hiện mưu đồ nắm Việt Nam và Đông Dương, đồng thời để có vai trò là một nước lớn trong việc giải quyết các vấn đề quốc tế, trước hết là ở châu Á. Trong Hội nghị Giơnevơ năm 1954 mà phần đầu dành cho vấn đề Triều Tiên, nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa lần đầu tiên xuất hiện ngang hàng với bốn cường quốc uỷ viên thường trực của Hội đồng bảo an Liên hợp quốc. Đó là một cơ hội tốt cho những người lãnh đạo Trung Quốc mở rộng ảnh hưởng của mình ở khu vực châu Á và châu Phi. Đồng thời, họ tìm cách bắt tay với đế quốc Mỹ qua các cuộc thương lượng trực tiếp bắt đầu Giơnevơ, về sau chuyển sang Vacsava.
Từ sau khi Hiệp định Giơnevơ năm 1954 được ký kết, đế quốc Mỹ ngày càng can thiệp sâu vào Việt Nam, nhằm biến miền Nam Việt Nam thành một thuộc địa kiểu mới và một căn cứ quân sự của Mỹ ở Đông Nam châu Á. Những người cầm quyền ở Bắc Kinh muốn duy trì lâu dài tình trạng Việt Nam bị chia cắt. Nhưng nhân dân Việt Nam đã anh dũng đứng lên chống Mỹ cứu nước và ngày càng giành được nhiều thắng lợi.
Cuối những năm 1960, đế quốc Mỹ bị sa lầy trong chiến tranh xâm lược chống Việt Nam, một cuộc chiến tranh đã làm trầm trọng thêm cuộc khủng hoảng về kinh tế, chính trị và xã hội của nước Mỹ, đồng thời làm suy yếu thêm vị trí của đế quốc Mỹ trên thế giới. Tình hình đó đã tạo điều kiện thuận lợi cho các nước xã hội chủ nghĩa và phong trào cách mạng trên thế giới phát triển mạnh mẽ và tạo cho các nước Tây Âu, Nhật Bản có cơ hội ngoi lên thành những lực lượng cạnh tranh mạnh mẽ với Mỹ. Trước tình thế ngày càng tuyệt vọng, tổng thống Nichxơn đã đề ra kế hoạch “Việt Nam hoá” chiến tranh và theo kinh nghiệm của đế quốc Pháp năm 1954, dùng Trung Quốc hòng giải quyết vấn đề Việt Nam với những điều kiện có lợi cho đế quốc Mỹ: rút quân Mỹ ra khỏi Việt Nam mà vẫn giữ được chế độ bù nhìn Nguyễn Văn Thiệu ở miền nam Việt Nam. Đồng thời, chính quyền Nichxơn chơi con bài Trung Quốc để gây sức ép đối với Liên Xô, chống phong trào cách mạng thế giới.
Lợi dụng sự suy yếu của đế quốc Mỹ và chiều hướng chính sách của chính quyền Nichxơn, những người lãnh đạo Trung Quốc tăng cường chống Liên Xô và thoả hiệp với Mỹ, giúp Mỹ giải quyết vấn đề Việt Nam để cố tạo nên thế ba nước lớn trên thế giới theo công thức của Kitxinhgơ về “thế giới nhiều cực”, trong đó một trong ba cực lớn là Trung Quốc, xoá bỏ “thế hai cực” Mỹ và Liên Xô đã hình thành sau chiến tranh thế giới thứ hai, đồng thời dùng vấn đề Việt Nam để đổi lấy việc Mỹ rút khỏi Đài Loan. Do đó, họ lật ngược chính sách liên minh, bắt đầu từ việc coi Liên Xô là kẻ thù chủ yếu, gây ra xung đột biên giới với Liên Xô tháng 3 năm 1969, đến việc phản bội Việt Nam lần thứ hai, buôn bán với Mỹ để ngăn cản thắng lợi hoàn toàn của nhân dân Việt Nam. Trong năm 1971, họ lần lượt tiến hành chính sách “ngoại giao bóng bàn”, đón tiếp Kitxinhgơ ở Bắc Kinh. Tiếp đó là việc khôi phục địa vị của Trung Quốc ở Liên hợp quốc và nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa trở thành một trong năm uỷ viên thường trực của Hội đồng bảo an. Đỉnh cao là việc Trung Quốc tiếp tổng thống Mỹ Nichxơn và hai bên ra Thông cáo Thượng Hải tháng 2 năm 1972. Đối với những người cầm quyền Bắc Kinh, sự câu kết với đế quốc Mỹ là một bước có ý nghĩa quyết định đối với việc triển khai chiến lược toàn cầu của họ.
Cũng như sau Hiệp định Giơnevơ 1954 về Đông Dương, những người lãnh đạo Trung Quốc sau Hiệp định Pari tháng 1 năm 1973 về Việt Nam, muốn duy trì nguyên trạng ở miền nam Việt Nam. “Cách mạng Trung Quốc và Đảng cộng sản Trung Quốc” của chủ tịch Mao Trạch Đông viết năm 1939 do hiệu sách Tân Hoa thư điếm (Dực Nam) tái bản tháng 6 năm 1949. Trong đó có đoạn viết:
“Sau khi dùng chiến tranh đánh bại Trung Quốc, các nước đế quốc đã cướp đi nhiều nước phụ thuộc và một bộ phận của lãnh thổ Trung Quốc: Nhật chiếm Triều Tiên, Đài Loan, Lưu Cầu, quần đảo Bành Hồ và Lữ Thuận. Anh chiếm Miến Điện, Butan, Nêpan và Hương Cảng. Pháp chiếm An Nam…”
Đường vẽ chấm là “biên giới” của Trung Quốc theo quan điểm bành trướng, những vùng đánh số là những lãnh thổ mà nhà cầm quyền Bắc Kinh cho là đã bị nước ngoài “chiếm mất” bao gồm: một phần lớn đất vùng Viễn Đông và Trung Á của Liên Xô (số 1, 17, 18), Át Xam (số 6), Xích Kim (số 4), Butan (số 5), Miến Điện (số 7), Nêpan (số 3), Thái Lan (số 10), Việt Nam (số 11), Lào, Campuchia…
Vì vậy thắng lợi của nhân dân Việt Nam năm 1975 đánh sụp hoàn toàn chính quyền tay sai của Mỹ, giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà không chỉ là một thất bại lớn của đế quốc Mỹ mà còn là một thất bại lớn của những người cầm quyền Bắc Kinh trong việc thực hiện chiến lược toàn cầu và mưu đố bành trướng, bá quyền của họ. Từ đó, họ công khai thi hành chính sách thù địch chống Việt Nam, kể cả bằng biện pháp quân sự.
Như vậy, trong 30 năm qua, Việt Nam là một trong những nhân tố quan trọng nhất trong chiến lược toàn cầu của Trung Quốc. Vì Việt Nam có vị trí rất quan trọng trong chiến lược của Pháp giữa những năm 1950 cũng như trong chiến lược của Mỹ đầu những năm 1970, những người lãnh đạo Trung Quốc đã dùng “con bài” Việt Nam để câu kết với bọn đế quốc, phục vụ cho ý đồ chiến lược bành trướng đại dân tộc và bá quyền nước lớn của họ. Đồng thời họ mưu toan một mình nắm cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam, một vấn đề trung tâm của đời sống chính trị quốc tế lúc bấy giờ để giương cao chiêu bài “chống chủ nghĩa đế quốc” hòng nắm quyền “lãnh đạo cách mạng thế giới”, dìm ảnh hưởng của Liên Xô.
II- VIỆT NAM TRONG CHÍNH SÁCH ĐÔNG NAM Á CỦA TRUNG QUỐC.
Đông Nam châu Á là hướng bành trướng cổ truyền trong lịch sử Trung Quốc, là khu vực mà từ lâu những người lãnh đạo nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa ước mơ thôn tính.
Trong năm 1936, chủ tịch Mao Trạch Đông kể chuyện với nhà báo Mỹ Etga Xnâu ở Diên An về thời trẻ của mình, đã bộc lộ ý nghĩ sau khi đọc một cuốn sách nhỏ nói đến việc Nhật chiếm Triều Tiên và Đài Loan, việc mất “chủ quyền” Trung Hoa ở Đông Dương, Miến Điện và nhiều nơi khác:
“Đọc xong, tôi lấy làm thất vọng đối với tương lai đất nước tôi và tôi bắt đầu nhận thức rằng bổn phận của mọi người là phải đóng góp cứu nước”. (Ét-ga Xnâu: Ngôi sao đỏ trên đất Trung Hoa, Nhà xuất bản Pen-guyn, Lân đơn, 1972, tr. 159)
Tài liệu của Đảng cộng sản Trung Quốc do chủ tịch Mao Trạch Đông viết mang tên Cách mạng Trung Quốc và Đảng cộng sản Trung Quốc, xuất bản năm 1939 có viết:
“Các nước đế quốc sau khi đánh bại Trung Quốc, đã chiếm các nước phụ thuộc của Trung Quốc: Nhật chiếm Triều Tiên, Đài Loan, Lưu Cầu, quần đảo Bành Hồ và Lữ Thuận. Anh chiếm Miến Điện, Butan, Hương Cảng, Pháp chiếm An Nam…”
Cuốn sách Sơ lược lịch sử Trung Quốc hiện đại xuất bản năm 1954 ở Bắc Kinh có bản đồ vẻ lãnh thổ Trung Quốc bao gồm cả nhiều nước chung quanh, kể cả ở Đông Nam châu Á và vùng biển Đông.
Ý đồ bành trướng của những người lãnh đạo Trung Quốc đặc biệt lộ rõ ở câu nói của chủ tịch Mao Trạch Đông trong cuộc hội đàm với đại biểu Đảng Lao động Việt Nam ở Vũ Hán năm 1963:
“Tôi sẽ làm chủ tịch của 500 triệu bần nông đưa quân xuống Đông Nam châu Á”
Cũng trong dịp này, chủ tịch Mao Trạch Đông so sánh nước Thái Lan với tỉnh Tứ Xuyên của Trung Quốc, về diện tích thì tương đương nhưng về số dân thì tỉnh Tứ Xuyên đông gấp đôi, và nói rằng Trung Quốc cần đưa người xuống Thái Lan để ở; đối với nước Lào đất rộng người thưa, chủ tịch Mao Trạch Đông cũng cho rằng Trung Quốc cần đưa người xuống Lào để ở.
Chủ tịch Mao Trạch Đông còn khẳng định trong cuộc họp của Bộ Chính trị ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Trung Quốc, tháng 8 năm 1965:
“Chúng ta phải giành cho được Đông Nam châu Á, bao gồm cả miền nam Việt Nam, Thái Lan, Miến Điện, Malayxia và Singapo…Một vùng như Đông Nam châu Á rất giàu, ở đấy có nhiều khoáng sản…xứng đáng với sự tốn kém cần thiết để chiếm lấy…Sau khi giành được Đông Nam châu Á, chúng ta có thể tăng cường được sức mạnh của chúng ta ở vùng này, lúc đó chúng ta sẽ có sức mạnh đương đầu với khối Liên Xô-Đông Âu, gió Đông sẽ thổi bạt gió Tây…”.
So với các khu vực khác trên thế giới, Đông Nam châu Á là khu vực mà Trung Quốc có nhiều điều kiện thuận lợi nhất, có nhiều phương tiện và khả năng nhất (hơn 20 triệu Hoa kiều, các chính đảng lệ thuộc vào Đảng cộng sản Trung Quốc, Đông Nam châu Á có đường đất liền với Trung Quốc…) để thực hiện chính sách bành trướng và bá quyền nước lớn của mình. Cho nên trong 30 năm qua, những người lãnh đạo nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa đã dùng nhiều thủ đoạn để thực hiện chính sách bành trướng ở khu vực này, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện chiến lược toàn cầu phản cách mạng của họ.
Họ xây dựng lực lượng hạt nhân chiến lược, phát triển lực lượng kinh tế, ỷ thế nước lớn, đe doạ bằng quân sự và hứa hẹn viện trợ về kinh tế để mua chuộc, lôi kéo hoặc gây sức ép với các nước ở khu vực này, hòng làm cho các nước đó phải đi vào quỹ đạo của họ. Họ xâm phạm lãnh thổ các nước và gây ra xung đột biên giới, dùng lực lượng tay sai hoặc trực tiếp đem quân xâm lược, hòng làm suy yếu để dễ bề khuất phục, thôn tính nước này, nước khác trong khu vực. Họ không từ bất kỳ một hành động tàn bạo nào, như họ đã dùng tập đoàn Pônpốt- Iêngxary thực hiện chính sách diệt chủng ở Campuchia. Họ dùng nhiều công cụ ở các nước Đông Nam châu Á: lực lượng Hoa kiều làm “đạo quân thứ năm”, các tổ chức gọi là “cộng sản” theo mệnh lệnh của Bắc Kinh, các dân tộc thiểu số ở cấc nước thuộc khu vực này có ít nhiều nguồn gốc dân tộc ở Trung Quốc để phục vụ cho chính sách bành trướng và bá quyền của họ.
Về việc sử dụng lực lượng Hoa kiều, ý đồ của Bắc Kinh đã được thể hiện rõ nhất trong ý kiến của bộ trưởng Bộ Ngoại giao Trần Nghị:
“Singapore có trên 90% là người Trung Quốc, trong số dân hơn 1 triệu người thì hơn 90 vạn là người Trung Quốc. Cho nên Singapore hoàn toàn trở thành một quốc gia do người Trung Quốc ở đó tổ chức”. (3)
Những người lãnh đạo Trung Quốc lợi dụng mâu thuẫn giữa các dân tộc ở Đông Nam châu Á, chia rẽ các nước thuộc tổ chức ASEAN (4)với ba nước trên bán đảo Đông Dương, chia rẽ các nước với nhau như đã chia rẽ Malayxia với Inđônêxia, Miến Điện với Thái Lan…Đặc biệt họ lợi dụng tình hình ở Đông Nam châu Á là một trong những khu vực sục sôi cách mạng trên thế giới, phong trào độc lập dân tộc ngày càng phát triển và chủ nghĩa thực dân đế quốc ngày càng suy yếu để thực hiện ý đồ bành trướng của họ. Khi thực dân Pháp thất bại ở Việt Nam năm 1954, họ muốn duy trì ở miền Nam Việt Nam, Lào và Campuchia sự có mặt của Pháp là một tên đế quốc đã suy yếu để ngăn cản Mỹ, tên đế quốc đầu sỏ thâm nhập vào Đông Dương và hạn chế thắng lợi hoàn toàn của cách mạng ba nước ở Đông Dương. Khi Mỹ suy yếu và thất bại ở vùng này, họ muốn duy trì sự có mặt của Mỹ để cùng với Mỹ thống trị các nước trong khu vực. Làm như vậy, họ hy vọng dựa vào chủ nghĩa đế quốc ngăn chặn sự phát triển của cách mạng để từng bước lấp cái gọi là lỗ hổng ở Đông Nam châu Á, tiến đến gạt dần các đồng minh đế quốc để độc chiếm khu vực này. Họ tung ra luận điệu lừa bịp là ngăn chặn ảnh hưởng của Liên Xô để che dấu âm mưu đen tối của họ.
(3) Trong cuộc nói chuyện với chuyện với các đại biểu người Hoa ỏ Việt Nam đến chào mừng đoàn đại biểu Đảng và Chính phủ Trung Quốc do Thủ tướng Chu Ân Lai dẫn đầu thăm Việt Nam, tháng 5 năm 1960.
(4) Tức hội các người Đông Nam Á, thành lập năm 1967. (B.T.)
Việt Nam có một vị trí chiến lược ở Đông Nam châu Á. Trong lịch sử, bọn bành trướng phong kiến Trung Quốc đã nhiều lần xâm lược hòng thôn tính Việt Nam, dùng Việt Nam làm bàn đạp để xâm lược các nước khác ở Đông Nam châu Á. Khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, trong các đảng cộng sản ở khu vực này chỉ có Đảng cộng sản Việt Nam giành được chính quyền và thành lập Nhà nước công nông đầu tiên trong khu vực. Cách mạng Việt Nam có ảnh hưởng to lớn do đánh thắng thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Những người lãnh đạo Trung Quốc âm mưu nắm Việt Nam để nắm toàn bộ bán đảo Đông Dương, mở đường đi xuống Đông Nam châu Á. Trong cuộc gặp giữa đại biểu bốn đảng cộng sản Việt Nam, Trung Quốc, Inđônêxia và Lào tại Quảng Đông tháng 9 năm 1963, thủ tướng Chu Ân Lai nói:
“Nước chúng tôi thì lớn nhưng không có đường ra, cho nên rất mong Đảng Lao động Việt Nam mở cho một con đường mới xuống Đông Nam châu Á”.
Để làm suy yếu và nắm lấy Việt Nam, họ ra sức phá sự đoàn kết giữa ba nước ở bán đảo Đông Dương, chia rẽ ba nước với nhau, đặc biệt là chia rẽ Lào và Campuchia với Việt Nam. Đồng thời họ cố lôi kéo các nước khác ở Đông Nam châu Á đối lập với Việt Nam, vu khống, bôi xấu, hòng cô lập Việt Nam với các nước trên thế giới.
Những người cầm quyền Bắc Kinh rêu rao cái gọi là “chủ quyền” của họ đối với các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đầu năm 1974, với sự đồng tình của Mỹ, họ đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa, bộ phận lãnh thổ của Việt Nam để từng bước kiểm soát biển Đông, khống chế Việt Nam và toàn bộ Đông Nam châu Á, đồng thời khai thác tài nguyên phong phú ở vùng biển Đông.
Những người lãnh đạo Trung Quốc hy vọng tập hợp lực lượng ở Đông Nam Châu Á để tiến đến tập hợp lực lượng trên thế giới hòng thực hiện chiến lược toàn cầu của họ. Những năm 1960 họ ra sức tập hợp lực lượng ở các khu vực Á, Phi, Mỹ latinh để nắm quyền “lãnh đạo cách mạng thế giới” và chống Liên Xô. Để đạt mục tiêu đó, từ năm 1963 họ ráo riết vận động họp 11 đảng cộng sản, trong đó có 8 đảng ở Đông Nam châu Á hòng lập ra một thứ “Quốc tế cộng sản” mới do họ khống chế, xây dựng cái gọi là “trục Bắc Kinh- Giacacta-Phnông Pênh-Bình Nhưỡng-Hà Nội”, thông qua Inđônêxia vận động triệu tập “Hội nghị các lực lượng mới trỗi dậy” (CONEFO) để thành lập một tổ chức quốc tế đối lập với Liên hợp quốc; đồng thời vận động tổ chức Hội nghị Á-Phi lần thứ hai (dự định họp ở Angiê năm 1965). Nhưng những người lãnh đạo Trung Quốc đã không thành công trong các kế hoạch đen tối này. Đó là vì họ đi ngược lại lợi ích của cách mạng thế giới là tăng cường hệ thống xã hội chủ nghĩa và phong trào độc lập dân tộc, dân chủ, vì họ vấp phải đường lối độc lập tự chủ trước sau như một của Việt Nam.
Trong 30 năm qua, những người lãnh đạo Trung Quốc coi Việt Nam là một trong những nhân tố quan trọng hàng đầu đối với chiến lược của họ, luôn luôn tìm cách nắm Việt Nam. Muốn như vậy, nước Việt Nam phải là một nước không mạnh, bị chia cắt, không độc lập và lệ thuộc Trung Quốc. Trái lại, một nước Việt Nam độc lập, thống nhất và giàu mạnh, có đường lối độc lập tự chủ và đường lối quốc tế đúng đắn là một cản trở lớn cho chiến lược toàn cầu của những người lãnh đạo Trung Quốc, trước hết là cho chính sách bành trướng của họ ở Đông Nam châu Á. Đó là nguyên nhân vì sao trước đây họ vừa giúp, vừa kiềm chế cách mạng Việt Nam, mỗi khi Việt Nam đánh thắng đế quốc thì họ lại buôn bán, thoả hiệp với đế quốc trên lưng nhân dân Việt Nam; vì sao từ chỗ giấu mặt chống Việt Nam họ đã chuyển sang công khai thù địch với Việt Nam và đi tới trắng trợn tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam.
Chính sách của những người lãnh đạo Trung Quốc muốn thôn tính Việt Nam nằm trong chính sách chung của họ đối với các nước Đông Nam châu Á cũng như đối với các nước láng giềng khác. Họ đã muốn chiếm đất đai của Ấn Độ và thực tế đã chiếm một bộ phận đất đai của Ấn Độ trong cuộc chiến tranh năm 1962; họ không muốn có một nước Ấn Độ mạnh mà họ cho rằng có thể tranh giành với họ “vai trò lãnh đạo” các nước Á-Phi. Họ vẫn mưu toan chiếm Mông Cổ, mặc dù họ đã công nhận nước Cộng hoà nhân dân Mông Cổ là một quốc gia độc lập. Họ muốn chiếm một phần đất đai của Liên Xô, rất không muốn có bên cạnh Trung Quốc một nước Liên Xô hùng mạnh, nên họ tìm mọi cách hạ uy thế của Liên Xô, đẩy các nước đế quốc gây chiến tranh với Liên Xô, đẩy các nước Á-Phi Mỹ la tinh chống Liên Xô. Họ tập trung mọi cố gắng để dấy lên một cuộc “thập tự chinh quốc tế” của các lực lượng đế quốc và phản động chống Liên Xô dưới chiêu bài “chống bá quyền” theo công thức của chủ tịch Mao Trạch Đông “Ngồi trên núi xem hổ đánh nhau”. Như nhiều nhà chính trị và báo chí Tây Âu nhận định, Trung Quốc quyết tâm “đánh Liên Xô đến người Tây Âu cuối cùng” cũng như Trung Quốc trước đây đã quyết tâm “đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng”.
Chiến lược quốc tế ngày nay của những người lãnh đạo Trung Quốc, mặc dù núp dưới chiêu bài nào, đã phơi trần tính chất cực kỳ phản cách mạng của nó và những người lãnh đạo Trung Quốc đã hiện nguyên hình là những người theo chủ nghĩa sô vanh nước lớn, những người dân tộc chủ nghĩa tư sản.
Chính sách ngày nay của những người lãnh đạo Trung Quốc đối với Việt Nam, mặc dù được nguỵ trang khéo léo như thế nào, vẫn chỉ là chính sách của những hoàng đế “thiên triều” trong mấy nghìn năm qua, nhằm thôn tính Việt Nam, biến Việt Nam thành một chư hầu của Trung Quốc.
Việt Nam lại ca ngợi chuyện cầm súng chống Trung Quốc
HÀ NỘI (NV) - Lần thứ hai báo chí Việt Nam tiếp tục đưa tin về việc tưởng niệm những người lính tử trận năm 1984 khi phản công để giành lại các cao điểm bị Trung Quốc chiếm giữ ở Hà Giang.
Hình ảnh những cựu chiến binh của sư đoàn 356 tưởng niệm đồng đội đã tử trận ở Vị Xuyên, Hà Giang vào ngày 12 tháng 7 năm 1984 được đăng trên tờ Tuổi Trẻ. (Hình: Tuổi Trẻ)
Có tờ báo như Tuổi Trẻ còn cử phóng viên thực hiện một phóng sự liên quan đến sự kiện đẫm máu mà Việt Nam từng tìm mọi cách để làm cho công chúng quên lãng.
Vào ngày 17 Tháng Hai, 1979, Trung Quốc xua quân tràn sang Việt Nam để “dạy cho Việt Nam một bài học,” bởi bỏ Trung Quốc theo Liên Xô. Sau khi phá sạch, đốt sạch nhiều làng mạc, thị trấn ở các tỉnh tiếp giáp với biên giới của mình, ngày 16 Tháng Ba, Trung Quốc tuyên bố đã rút toàn bộ quân đội ra khỏi lãnh thổ Việt Nam.
Tuy nhiên, xung đột giữa hai bên tại khu vực biên giới Việt-Trung vẫn còn kéo dài cho đến năm 1989. Trong đó có sáu đợt giao tranh lớn vào các năm: 1980, 1981, 1983, 1984, 1985, 1986 và đợt giao tranh được xem là đẫm máu nhất xảy ra hồi Tháng Bảy, 1984.
Ngày 12 Tháng Bảy, 1984, sư đoàn 356 của Việt Nam đã phản công để giành lại một số cao điểm thuộc huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang - lúc đó đã bị Trung Quốc chiếm giữ từ Tháng Tư, 1984. Trong ngày đầu của cuộc phản công này, có ít nhất 600 người lính Việt Nam tử trận. Rất nhiều người cho đến nay không tìm được xác.
Sau khi Việt Nam “bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc” vào năm 1990, cuộc chiến với Trung Quốc trở thành đề tài cấm kỵ. “Tinh thần bốn tốt” (láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt) và “16 chữ vàng” (láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai) mà giới lãnh đạo Trung Quốc đề nghị, trở thành kim chỉ nam của giới lãnh đạo Việt Nam trong ứng xử. Không còn ai đả động đến những người lính đã tử trận khi chống Trung Quốc, bảo vệ lãnh thổ.
Bia ghi công sư đoàn 337 của quân đội CSVN đẩy lui quân Trung Quốc hồi tháng 2 năm 1979, tại đầu cầu Khánh Khê, trên quốc lộ 1B bị đục bỏ những chữ “quân Trung Quốc xâm lược.” (Hình: Thanh Niên)
Đầu thập niên 2010, do Trung Quốc càng lúc càng càn rỡ và Việt Nam càng ngày càng tỏ ra bạc nhược, hèn yếu, người Việt trong nước bắt đầu đề cập đến họa mất nước và cuộc chiến chống Trung Quốc xâm lược trong giai đoạn từ 1979 đến 1989 được xới lên, nhắc lại như một bằng chứng về dã tâm của Trung Quốc.
Đến lúc đó, người ta mới sửng sốt và phẫn nộ khi phát giác tại khu vực biên giới Việt-Trung, bia ghi công những người lính “thắng quân xâm lược Trung Quốc” và bia tưởng niệm những thường dân bị “quân xâm lược Trung Quốc thảm sát” đã bị đục bỏ.
Cho đến những năm 2012, 2013, các cuộc tưởng niệm những người lính đã tử trận trong các cuộc chiến chống quân Trung Quốc xâm lược hoặc bị Trung Quốc giết tại đảo Gạc Ma thuộc quần đảo Trường Sa vẫn bị an ninh Việt Nam theo dõi chặt chẽ, sách nhiễu và bị hệ thống truyền thông vu cáo là những hành động nông nổi vì “bị các thế lực thù địch kích động.”
Kể từ năm ngoái, bất kể đã rất cố gắng nhằm chứng tỏ “thiện chí” trong việc gìn giữ nghiêm cẩn “tinh thần bốn tốt” và “16 chữ vàng” nhưng Trung Quốc vẫn lấn tới và trước sự phẫn nộ càng ngày càng lớn của dân chúng, chính quyền Việt Nam bắt đầu nới lỏng chuyện chỉ trích Trung Quốc. Báo chí Việt Nam lại bắt đầu ca ngợi những người lính đã tử trận trong các cuộc chiến chống Trung Quốc như họ đã từng làm lúc chính quyền Việt Nam cần nhiều người cầm súng. (G.Đ.)
Tại sao Mỹ không bồi thường chiến tranh Việt Nam?
TP - Đàm phán về bình thường hóa quan hệ Việt-Mỹ thường xuyên lâm vào thế bế tắc vì nhiều vấn đề, trong đó có bồi thường chiến tranh, người Mỹ mất tích trong chiến tranh (MIA)… Năm 1973, Tổng thống Mỹ Richard Nixon gửi thư cho Thủ tướng Phạm Văn Đồng cam kết “bồi thường” 3,25 tỷ USD cho Việt Nam.
Ông Lê Đức Thọ (trái) và ông Henry Kissinger tại Paris cuối tháng 1/1973. Ảnh: AP
Ông Phan Doãn Nam, thư ký của Thứ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch thời kỳ Việt Nam và Mỹ đang đàm phán Hiệp định Paris, kể lại những câu chuyện liên quan quá trình bình thường hóa quan hệ Việt-Mỹ, trong đó có vấn đề bồi thường chiến tranh và MIA.
Nhà máy thép không thành
“Quá khứ không dễ quên, nhất là khi bị in hằn bởi những vết sẹo do chiến tranh để lại nhưng với tư duy luôn hướng về phía trước, Việt Nam và Hoa Kỳ đã và đang nỗ lực rất nhiều để vượt lên trên quá khứ và định hình quan hệ tương lai”.
Phó Thủ tướng,
Bộ trưởng
Bộ Ngoại giao
Phạm Bình Minh
Ông Nam kể, năm 1973, phía Việt Nam muốn nhận tiền bồi thường chiến tranh để xây dựng nhà máy thép 3 triệu tấn; phía Mỹ đồng ý thương lượng về vấn đề này, nhưng không gọi là bồi thường chiến tranh, mà là khoản đóng góp vào quá trình tái thiết Việt Nam. Phía Việt Nam lúc đầu đưa ra con số 5 tỷ USD, sau thương lượng thì rút xuống 3,25 tỷ USD. Tháng 2/1973, Tổng thống Mỹ Richard Nixon gửi thư cho Thủ tướng Phạm Văn Đồng với nội dung Mỹ sẽ trả khoản tiền 3,25 tỷ USD. Ông Nam nói rằng, lúc đó, các nhà lãnh đạo Việt Nam đang tập trung ký cho xong Hiệp định Paris, nên không phân tích kỹ một câu gần cuối thư có nội dung hai bên sẽ thực hiện thỏa thuận ghi trong thư đúng theo hiến pháp của mỗi nước. Theo ông Nam, chính câu này trở thành cớ để Mỹ sau đó không thực hiện cam kết trả 3,25 tỷ USD; vấn đề bồi thường nếu đưa ra Quốc hội Mỹ chắc chắn không được thông qua vì Quốc hội Mỹ hồi đó chống đối Việt Nam. Báo chí Mỹ về sau đưa tin, tác giả của câu đó chính là ông Henry Kissinger (cố vấn của Tổng thống Mỹ Richard Nixon, sau trở thành Ngoại trưởng), ông Nam nói.
Ông Phan Doãn Nam (từng là Thư ký/Trợ lý của Thứ trưởng/Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch) trả lời phỏng vấn báo Tiền Phong. Ảnh: Trúc Quỳnh
Trước đó, đoàn đại diện của Cơ quan Phát triển Quốc tế Mỹ (USAID) Mỹ vẫn tư vấn cho Việt Nam cách chia nhỏ nhà máy thép công suất lớn thành nhiều nhà máy công suất nhỏ để tránh bị Quốc hội Mỹ gạt bỏ nếu cho rằng Việt Nam sản xuất nhiều thép để tiếp tục chiến tranh. Đoàn của USAID còn đưa ra yêu cầu tiền bồi thường phải được dùng để mua hàng của Mỹ và vận chuyển bằng tàu Mỹ, chứ không được trả bằng tiền mặt. Sau mấy tháng làm việc và tư vấn cho Việt Nam, đoàn này về nước và không hồi âm gì, ông Nam kể.
Ông Nam nói rằng, sau đó, Việt Nam mới nhận ra Mỹ chỉ muốn thăm dò xem nước ta có thực sự muốn xây dựng lại đất nước hay tiếp tục chiến tranh. Nhân có dòng chữ cuối thư mà phía Mỹ không đề cập chuyện viện trợ 3,25 tỷ USD nữa. Năm 1975, Mỹ cho rằng Việt Nam không thi hành Hiệp định Paris nên cũng không thực hiện cam kết của họ, trong đó có khoản bồi thường chiến tranh, ông Nam nói. Những cuộc đàm phán sau đó về bình thường hóa quan hệ Việt-Mỹ bế tắc vì nhiều vấn đề, trong đó có bồi thường chiến tranh, MIA… Thời gian đó, Mỹ luôn cho rằng, Việt Nam giữ lại hài cốt lính Mỹ và giấu tù binh Mỹ. Từ năm 1977 đến 1978, Việt Nam có ba cuộc thương lượng với Mỹ về bình thường hóa quan hệ, nhưng đều bế tắc vì hai vấn đề này, ông Nam kể. Sau đó, các cuộc đàm phán còn bị ảnh hưởng khi Trung Quốc chủ động thúc đẩy bình thường hóa quan hệ với Mỹ, ông nói. Tổng thống Mỹ Jimmy Carter hồi đó không chống Việt Nam, nhưng cho rằng thời cơ đến thì bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc trước, sau đó với Việt Nam.
Về vấn đề MIA, Việt Nam đã nỗ lực giải quyết vấn đề tìm kiếm, trao trả nhiều hài cốt cho Mỹ. Phía Việt Nam phải trải qua nhiều khó khăn, vất vả, thậm chí thương vong trong quá trình đi tìm hài cốt lính Mỹ. Ông Nam kể rằng, một người bạn ông làm việc ở Bộ Ngoại giao đã tử nạn khi có mặt trên chiếc máy bay bị nổ trên đường đi tìm hài cốt Mỹ. Năm 1989, vợ chồng Tổng thống Mỹ Bill Clinton sang Việt Nam được mời ra tận thực địa để chứng kiến việc tìm kiếm hài cốt lính Mỹ khó khăn như thế nào. Ông Nam kể, phía ta nói với phía Mỹ rằng, Việt Nam còn có hàng trăm nghìn, thậm chí hàng triệu chiến sĩ hy sinh trong chiến tranh chưa nhận dạng được, chưa biết mồ mả ở đâu; phía Mỹ dần dần hiểu ra rằng Việt Nam cũng đau lắm. Đến năm 1989, Việt Nam rút hết quân khỏi Campuchia, xóa bỏ trở ngại cuối cùng trong tiến trình đàm phán. Đại sứ Mỹ lúc đó tuyên bố sẵn sàng bình thường hóa quan hệ với Việt Nam.
Henry Kissinger: Chúng tôi kính phục các ông
Ông Nam nói rằng, trong quá trình đàm phán bình thường hóa quan hệ, thái độ của phía Việt Nam rất nghiêm túc, biết “đánh đúng chỗ họ cần”, và được phía Mỹ đánh giá cao. Là người tham gia quá trình đàm phán Hiệp định Paris, ông Nam kể lại câu chuyện sau 5 năm đàm phán ở Paris, buổi cuối cùng vào tháng 1/1973, đoàn Việt Nam mời cơm thân mật đoàn Mỹ. Ông Lê Đức Thọ trong bữa đó đã hỏi ông Henry Kissinger nghĩ sao về đoàn Việt Nam. “Không phải là người thân Việt Nam, nhưng Kissinger đã nói rằng, chuyện các ông chiến đấu oanh liệt là không ai chối cãi. Nhưng nếu các ông chỉ gan dạ, anh dũng thì chúng tôi cũng dễ đối phó. Nhưng đằng này các ông còn rất khôn ngoan, mưu lược, nên 5 năm nay chúng tôi phải đấu với các ông không phải dễ. Chúng tôi rất kính phục các ông”, ông Nam kể.
Sau khi ký Hiệp định Paris, Mỹ vẫn không đồng ý Việt Nam vào Liên Hợp Quốc, nhưng Tổng thống Nixon nói rằng, Mỹ sẽ không bao giờ xem Việt Nam là kẻ thù, và trong thời gian chưa bình thường hóa quan hệ, sẽ không công nhận bất kỳ chính phủ lưu vong nào chống lại chính phủ Việt Nam, ông Nam cho biết.
Ông Nam cho rằng, Việt Nam và Mỹ từng có không ít cơ hội để có thể “chơi” với nhau từ rất sớm. Ông kể, cựu Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert McNamara đã tổ chức năm cuộc hội thảo tại Việt Nam và một hội thảo ở Ý để tìm ra trong quan hệ Việt - Mỹ có cơ hội nào bị bỏ lỡ. Sau khi Việt Nam độc lập, Bác Hồ gửi thư cho Tổng thống Mỹ Harry Truman. Chiến tranh Lạnh khi đó chưa đến, và Tổng thống Truman vẫn nói ủng hộ quyền tự quyết của các dân tộc. Bác Hồ tin tưởng như vậy nên mới gửi thư cho Tổng thống Truman, nhưng ông này không trả lời, ông Nam kể. Bản thân ông McNamara ít nhất 7 lần đề nghị chính phủ Mỹ đàm phán, nhưng cũng bị bỏ qua…
Quan hệ Việt - Mỹ đang phát triển thuận lợi
Trong bức thư gửi Tổng thống Truman ngày 16/2/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ mục tiêu của Việt Nam là “độc lập hoàn toàn và hợp tác toàn diện với Hoa Kỳ”. Người cũng khẳng định Việt Nam “sẽ làm hết sức mình để làm cho nền độc lập và sự hợp tác này trở nên có lợi cho toàn thế giới”. Thế giới ngày nay đang vận động rất nhanh, đòi hỏi hai nước không được phép bỏ lỡ những cơ hội lịch sử như những giai đoạn trước, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Bình Minh nhận định. Chặng đường 20 năm qua, nhất là từ khi hai nước xác lập quan hệ Đối tác toàn diện tháng 7/2013, đã chỉ ra rằng, hòa bình và thịnh vượng ở Đông Nam Á nói riêng và khu vực châu Á - Thái Bình Dương nói chung có nhiều điều kiện được duy trì hơn khi quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ phát triển thuận lợi; quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện giữa Việt Nam và Hoa Kỳ phù hợp với lợi ích chung của tất cả các nước trong khu vực, Phó Thủ tướng khẳng định.
Đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng ... cho Tàu*
Một bài viết - chỉ là một bài viết - nhưng tác giả đã bị công an VN cộng sản mời tới để "làm việc".
Huỳnh Thục Vy
Tôi sinh trưởng sau năm 1975 và gia đình tôi không có liên quan gì nhiều đến cả hai phía trong cuộc chiến tranh Việt Nam vì thế mối tương quan tình cảm của tôi với những sự kiện lịch sử và hoàn cảnh chính trị xã hội trong cuộc chiến hầu như rất ít nếu không muốn nói là không có. Những gì ít ỏi mà tôi được hiểu biết về nó chỉ đơn thuần là kiến thức. Đứng trong vị thế đó, tôi tạm thời có thể yên tâm rằng lập trường của tôi, và những gì tôi nói ra sau đây sẽ được hiểu một cách thiện chí và không bị gán ghép hay chụp mũ. Tôi không sợ bị chụp mũ, nhưng thiết nghĩ điều đó cùng với những nguỵ biện không có lợi cho sự tiến bộ.
Gần đây, tôi tình cờ đọc được một nhận xét của tướng William Childs Westmoreland- Tư lệnh Bộ chỉ huy cố vấn quân sự Mỹ tại miền Nam Việt Nam- về tướng Võ Nguyên Giáp của quân đội Bắc Việt như sau: "Of course, he was a formidable adversary.... By his own admission, by early 1969, I think, he had lost, what, a half million soldiers? He reported this. Now such a disregard for human life may make a formidable adversary, but it does not make a military genius...". Xin được tạm dịch là: "Dĩ nhiên, ông ta là một đối thủ (kẻ thù) ghê gớm....Với sự thừa nhận của chính ông ta, đến đầu năm 1969, tôi nghĩ, ông ta đã mất nửa triệu lính? Ông ta đã báo cáo điều này. Hiện tại, một sự coi thường mạng người như thế có lẽ sẽ tạo nên một đối thủ (kẻ thù) ghê gớm, nhưng nó không tạo nên một thiên tài quân sự...."
Dù chúng ta là ai, đứng bên nào của cuộc chiến, chúng ta cũng phải đồng ý với Westmoreland rằng, một chiến thắng quân sự dựa trên chiến thuật đẫm máu, coi thường sinh mạng binh sĩ chỉ có thể tạo nên một kẻ thù nguy hiểm chứ không tạo nên một thiên tài quân sự như nhiều người vẫn rêu rao. Câu nói này của viên tướng Hoa Kỳ làm tôi suy nghĩ rất nhiều về sự "nguy hiểm" của những người Cộng sản Việt Nam. Họ nguy hiểm bởi họ là những người luôn hành động theo phương châm"mục đích biện minh cho phương tiện", nghĩa là bất chấp mọi thứ, miễn đạt được mục đích. Đối với tôi, nó không chỉ là lời nhận xét về tướng Giáp mà là một câu nói nêu bật lên bản chất của những người Cộng sản Bắc Việt, và cả chế độ mà họ dựng nên. Và những việc họ đã làm suốt từ những ngày đầu có mặt tại Việt Nam đến nay, từ việc "trí phú địa hào, đào tận gốc trốc tận rễ" đến gần đây nhất là vụ cướp đất của nông dân đã chứng minh tất cả.
Một kẻ đối địch ghê gớm có thể được hiểu theo hai cách. Thứ nhất, đó là một kẻ thù đáng gờm, là đối thủ khó đánh bại vì có mãnh lực vũ trang, có chiến lược, chiến thuật hành động khôn ngoan... Nhưng khi nhìn xoáy vào chữ "formidable" mà Westmoreland đã dùng, tôi chú ý nhiều đến nghĩa "arousing fear" (gợi nên sự sợ hãi) . Với nghĩa này, nó gần giống với "terrorise" (làm cho sợ hãi). Mà làm cho người khác sợ hãi có nghĩa là "khủng bố". Chúng ta có thể hiểu theo hai cách về một "đối thủ ghê gớm" như tôi đã tạm phân tích ở trên. Nhưng biết đâu, cách hiểu thứ hai mới là điều mà ông tướng Mỹ kia ngụ ý? Xin hãy cho tôi tiếp tục trình bày mà tạm quên đi những mối thành kiến nào đó có thể đang dâng lên trong lòng quý vị.
Khi căn cứ vào những dữ kiện lịch sử- những điều không thể chối bỏ, những điều đã được trải nghiệm bằng chính xương máu của những người đã kinh qua cuộc chiến ấy- chúng ta sẽ có cái nhìn tường minh hơn. Riêng phần mình, với kiến thức ít ỏi về chiến tranh Việt Nam, tôi đã có thể tìm thấy những hình ảnh có khả năng "làm cho sợ hãi" của quân đội Bắc Việt qua nhiều biến cố như Tết Mậu Thân, và các "trận đánh" của đội Biệt động Sài Gòn như: "trận đánh" tàu nhà hàng Mỹ Cảnh, "trận đánh" cư xá Brinks...; và chưa kể đến những câu chuyện ghê gớm mà tôi từng được nghe những người già kể lại về vô số những "trận đánh" như thế vào trường học, khu dân cư, cầu cống....Đến nỗi, khi nghe nói quân đội Cộng sản Bắc Việt sắp vào đến ngã ba Cai Lang, thành phố Đà Nẵng, những người dân sống ở Đà Nẵng khi đó đã run cầm cập vì nghe tin đồn rằng người Cộng sản mà vào họ sẽ rút hết móng tay móng chân người dân. Đó có thể là điều sợ hãi thái quá, nhưng nó cho chúng ta thấy khả năng gieo rắc sợ hãi đến trình độ đỉnh cao của những người tự xưng là "quân giải phóng".
Những ai đọc lịch sử, những ai có đủ lương tâm và tầm tri thức trung bình, đều thấy rằng, những cái mà quân đội Bắc Việt và những người "nằm vùng" gọi là "trận đánh" gây nhiều tiếng vang đều không nhằm vào những mục tiêu trên tiền tuyến, để giành chiến thắng quân sự trực tiếp mà đánh vào những nơi ăn chốn ở cốt để gây sợ hãi. Gây sợ hãi cho người dân nhằm làm xáo trộn xã hội, gây sợ hãi đánh vào tâm lý Quốc hội và dư luận Mỹ.... Ngày nay, ai đi qua đường Hai Bà Trưng, đều nhìn thấy "Bia chiến công trận đánh cư xá Brinks". Cái mà người ta gọi là trận đánh thực ra là một cuộc đánh bom một nơi ở của cố vấn quân sự Mỹ ở miền Nam Việt Nam do hai thành viên Biệt Động Sài Gòn thực hiện. Điều mà họ gọi là "trận đánh" sao tôi thấy nó hao hao giống cách làm của những kẻ khủng bố Hồi giáo cực đoan, chỉ khác một chỗ là họ không tự sát. Đối với thế giới ngày nay, những kẻ đánh bom như thế thật sự là những kẻ "nguy hiểm", "ghê gớm".
Ngoài cái cách thể hiện "formidable" như trên, quân đội Bắc Việt còn khiến người ta sợ hãi hơn gấp bội vì sự coi thường tính mạng binh sĩ của họ. Thông thường, con người sợ hãi những kẻ thù tấn công mình một cách tàn ác, nhưng người ta sẽ kinh hoàng đến rợn người khi biết về những hành động coi tính mạng của người phe mình như cỏ rác, cốt chỉ nhằm đạt được mục đích của kẻ chỉ huy. Người Cộng sản đã lấy chính nghĩa chống giặc ngoại xâm để lừa dối, tuyên truyền, kích động hàng triệu Thanh niên miền Bắc lao vào cuộc chiến như con thiêu thân. Chúng ta được nghe nói rất nhiều về những tấm gương đầy nhiệt huyết và sự hy sinh anh dũng của những người trẻ tuổi mới chập chững vào đời. Đối với những cái chết đó, tôi không có bất cứ tình cảm tích cực nào ngoài sự thương tiếc. Cả một thế hệ người đã bị lừa gạt vì không nhận chân được bản chất của chế độ, của cái chủ thuyết mà nó rêu rao. Âu tất cả cũng chỉ là những sản phẩm lịch sử của một thời đại!
Để rồi sau cái ngày "thống nhất" ấy là những chuyến vượt biên vượt biển của hàng trăm ngàn người, và đã có cả hàng ngàn người phải bỏ xác ngoài biển khơi; là những năm tháng bao cấp, đói khổ đến cùng cực; đến nay đỡ đói khổ một chút, nhưng dân Việt ta vẫn chưa thoát khỏi thân phận làm thuê, ở đợ cho thiên hạ; đặc biệt vẫn còn cam chịu làm thần dân phục tùng các ông vua Cộng sản. Thế nhưng bất chấp cái thực tế đau buồn ấy, nhiều ngụy biện về thống nhất, về "công lao chống Mỹ cứu nước của Đảng" vẫn tồn tại ngay cả trong lớp người "có học" ở Việt Nam.
Thiết nghĩ một sự hy sinh chỉ nên có và đáng được ngợi ca khi đánh đổi với nó là một giá trị to lớn hơn. Bằng lập trường đề cao cá nhân, tôi cho rằng, mọi ý niệm: thống nhất, giải phóng dân tộc, kẻ thù...phải được đặt trong mối tương quan của chúng với những giá trị an sinh hạnh phúc thực sự của người dân. Suy cho cùng, mọi thứ bao gồm: thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, chính trị...chỉ là những phương tiện để đạt đến những giá trị nhân bản, để bảo vệ và phục vụ con người. Mọi định chế, mọi nỗ lực chính trị và xã hội đều nhằm vào cái đích đến quan trọng nhất của nó là CON NGƯỜI. Nếu mục đích cuối cùng ấy không đạt được thì mọi phương tiện kia chỉ là mưu đồ của kẻ lãnh đạo. Thật điên rồ thay cho những kẻ luôn hô hào "mục đích biện minh cho phương tiện". Chúng ta biết rằng, việc đánh giá tính chính đáng của phương tiện tuỳ thuộc vào mối tương quan về bản chất của nó đối với mục tiêu. Nói rõ hơn, chúng ta không thể dùng một phương tiện phi nhân để giành lấy một mục tiêu nhân bản.
Kết quả là, "sự nghiệp giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước" đã không khiến Việt Nam trở nên hùng mạnh hơn, dân tộc ta trở nên kiêu hãnh hơn; mà đơn giản chỉ là biến một miền Nam trước "giải phóng" hơn hẳn Hàn Quốc, sau gần bốn mươi năm thống nhất, cùng với cả nước lẹt đẹt chạy theo sau cả Thái Lan. Nếu ta lấy cứu cánh là sự phồn thịnh của quốc gia, là an sinh hạnh phúc, là tự do nhân phẩm của mỗi một người dân làm chuẩn thì liệu sự thống nhất ấy có nghĩa lý gì?
Đó là khi vấn đề được đặt dưới lăng kính lý luận. Còn thực tế thì mọi sự đã quá rõ ràng. Cái mà người ta gọi là "kháng chiến chống Mỹ cứu nước" ấy thực chất chỉ là để giúp Trung Quốc "đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng". Hay như Lê Duẩn từng nói: XHC "ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc, cho các nước, cho cả nhân loại". Nói cho rõ ra, đó là cuộc chiến giúp cho chủ nghĩa Cộng sản bành trướng xuống Đông Nam Á theo tinh thần Quốc tế Cộng sản bất chấp tinh thần dân tộc, là giúp cho Trung Cộng dễ dàng Hán hoá một Việt Nam suy yếu sau cuộc chiến tương tàn khốc liệt.
Đã 40 năm trôi qua kể từ ngày "giải phóng", giải phóng miền Nam khỏi mối quan hệ đồng minh với Mỹ để trở thành chư hầu hèn mọn của Trung Cộng. Sự thống nhất, sự giải phóng đó mới đau đớn làm sao! Gần bốn thập niên đã qua đi, dấu vết chiến tranh trên mảnh đất quê hương Việt Nam đã dần phai nhạt, nhưng những tổn thương của lòng người vẫn còn hằn sâu, thậm chí ngày càng sâu hơn. Thống nhất hai vùng địa lý nhưng vẫn vắng bóng một sự Hoà hợp trong tình tự dân tộc. Vết thương cũ do cuộc tiến chiếm miền Nam chưa kịp lành thì chúng ta lại có thêm những chia cắt mới: chia cắt giữa một bên là một nhóm người cam phận làm tay sai cho ngoại bang, với một bên là những con người yêu nước không khoan nhượng; chia cắt giữa một phía là nhóm người lãnh đạo Quốc gia cùng những kẻ ăn theo cố gắng bám giữ ngôi vị độc tài để tiếp tục nô lệ hoá người dân, với một phía là những người đấu tranh và chấp nhận hy sinh cho tự do và phẩm giá con người. Tôi vẫn nghĩ rằng, một con người trở nên dũng mãnh nhờ có ý chí. Một dân tộc trở nên hùng mạnh, cũng như vậy, phần nhiều dựa vào tinh thần và khí chất. Nhưng tinh thần và khí chất ấy chẳng thể có được nếu dân tộc ấy chia rẽ. Chính sức mạnh của tinh thần đoàn kết, sự Hoà hợp dân tộc có thể góp phần giúp chúng ta tạo lập một mãnh lực mới cho dân tộc.
Chỉ e Việt Nam vẫn sẽ tiếp tục bỏ lỡ những chuyến tàu thời đại nếu trong lòng dân tộc còn có những chia cắt chí mạng như thế. Nhưng thiết tưởng, sự Hoà hợp có khả năng xoá bỏ mọi ngăn cách, hàn gắn mọi vết thương, mang mọi người Việt về trong cùng một chí nguyện chỉ có thể đạt được trên tinh thần Hoà giải thiện chí, trên quyền lợi dân tộc và trên những nguyên tắc hướng thiện chứ không phải là sự thoả hiệp với cái xấu ác. Chỉ e những người Cộng sản Việt Nam quá u mê và tham lam nên không thể khởi động một chương trình Hoà hợp, Hoà giải và thay đổi chính trị đầy tham vọng như thế. Chỉ e những người Cộng sản chẳng thể làm nổi những gì mà nhà cầm quyền độc tài Miến Điện đã làm. Chỉ e.... Bởi đến hôm nay, họ vẫn một lòng một dạ coi mối quan hệ với Trung cộng là "chủ trương nhất quán", là "ưu tiên hàng đầu" như lời Tổng tham mưu trưởng quân đội nhân dân Việt Nam đã tuyên bố mới đây tại Bắc Kinh.
Mỗi năm tháng Tư về, bao nhiêu lễ lạt, đình đám vẫn diễn ra bất chấp mối hoài niệm về quá khứ vẫn nặng trĩu trong lòng nhiều người Việt, bất chấp mối ưu tư về tương lai đất nước vẫn canh cánh trong lòng những người có tâm huyết với đất nước. Những con người có lương tâm và tự trọng không bao giờ vui sướng được trong nỗi thống khổ to lớn ấy của dân tộc. Thử hỏi xương máu của hàng triệu con người đã ngã xuống trong cuộc chiến chỉ để tạo nên một Việt Nam thống nhất trong chia rẽ, thống nhất trong sự Hán hoá, thống nhất trong sự mất tự do và quyền làm người hay sao? Ba mươi tháng Tư- xin cầu nguyện cho tự do và nhân phẩm, cho sự Hoà hợp dân tộc và nền công lý.
Huỳnh Thục Vy
Người Việt Nam sẽ làm "đệm thịt“ bảo vệ Trung Quốc?
2015-07-01 Võ Thị Hào
*Trung Quốc đã sẵn sàng đưa Việt Nam ra trận?
Đến nay, theo nhận định của nhiều chuyên gia có uy tín, chiến tranh Trung – Mỹ có nhiều khả năng xẩy ra trên biển Đông.
Cuộc xung đột trong khu vực này xuất phát từ việc TQ chiếm cứ và xây dựng các đảo trên quần đảo Trường Sa của VN để mở rộng thêm căn cứ không quân, hải quân về phía Nam, tiến tới giành quyền kiểm soát tất cả các vùng nước của biển Đông, nhằm hạn chế tự do hàng hải và hàng không của nhiều nước trên thế giới, trong đó có Mỹ.
Đương nhiên là Mỹ và khối đồng minh sẽ không chấp nhận sự ngang ngược đó. Nếu TQ không lùi bước, chiến tranh sẽ xẩy ra.
Phạm vi tàn hại của cuộc chiến sẽ rộng lớn, nhưng là điểm chốt của chiến địa, tổn thất trước hết là VN. Không chỉ trên biển, ngay trên đất liền VN, TQ cũng đã khéo léo chiếm dụng những vùng hiểm yếu có thể sử dụng làm căn cứ địa cho chiến tranh biển Đông. Những đường cao tốc nối từ TQ tới VN ngoài nhiệm vụ cho một cuộc chiến tranh kinh tế triệt hạ VN, cướp công ăn việc làm của người VN, còn một chức năng vô cùng quan trọng là để chuyển quân, lương thực vũ khí để chỉ trong vài giờ đã có thể san phẳng VN và tiến ra biển Đông đọ sức với phe Mỹ.
* Địa ngục trần gian
Chiến tranh của thế kỷ 21 khác xưa. Đã kết thúc từ lâu cái thời VN có thể tự hào dùng hầm chông, lối đánh du kích, súng bắn tỉa và hầm bí mật để đánh giặc.
Chiến tranh Trung - Mỹ sẽ là cuộc đối đầu giữa hai cường quốc quân sự với những vũ khí siêu tối tân với khả năng hủy diệt rộng lớn. Và cũng không loại trừ chiến tranh hạt nhân.
Phó Viện trưởng về nghiên cứu toàn cầu của Viện Công nghệ Hoàng gia Melbuorne(Úc) khẳng định: Mỹ và TQ đang chực chờ xông vào một cuộc chiến, bất kể giữa hai nước đang tồn tại một sợ dây quan hệ kinh tế không thể tách rời. Biển Đông trở thành ngòi nổ chiến sự.
Theo báo cáo của Viện nghiên cứu hòa bình quốc tế Stockholm, hiện nhiều nước đang gấp rút nâng cấp kho vũ khí hạt nhân.
“Nói trắng ra, một cuộc chiến Mỹ - Trung sẽ là địa ngục trần gian. Nhiều khả năng thế chiến thứ 3 sẽ bắt đầu trong thời gian tới đây. Sẽ có hàng triệu, thậm chí hàng tỉ người chết bởi vũ khí hạt nhân. Những người may mắn sống sót sẽ phải đối mặt với tình trạng nền kinh tế toàn cầu sụp đổ. Đó là tất cả những gì mà thế giới sẽ phải chứng kiến khi giữa hai cường quốc của thế giới xẩy ra xung đột vũ trang“(theo nguoivietaz.com.us).
Mọi người đều biết rằng, nếu VN đứng về phía TQ, giống một nước chư hầu cong tấm lưng còng bọc lấy đất TQ trước biển Đông như hiện nay, thì sẽ không tránh khỏi số phận phải làm „chiếc đệm thịt“ đầu tiên trên chiến trường và tan nát trước khi Mỹ tiến đánh Trung quốc lục địa.
Do vị trí địa chính trị, sự lựa chọn của VN hiện nay có thể gớp phần cùng thế giới ngăn chặn thảm họa đó hoặc nhập khẩu thảm họa đó vào VN nếu cuộc chiến tranh Trung - Mỹ xẩy ra.
VN với truyền thống nhập khẩu chiến tranh
Với sự tham lam và thiển cận của nhà cầm quyền VN, họ đã tạo điều kiện tốt chưa từng có để TQ dễ dàng chiếm cứ VN trên mọi mặt và sử dụng người VN đi đánh nhau với Mỹ để bảo vệ TQ khi cần.
VN lựa chọn lệ thuộc TQ và thực hiện mọi mệnh lệnh của TQ là tự sát nếu chiến tranh Trung - Mỹ xẩy ra.
Nhập khẩu chiến tranh vào nước của mình và hớn hở đi chết cho kẻ khác trong khi giết dân mình, đó là năng khiếu của nhiều thế hệ cầm quyền VN.
Trong cuộc nội chiến huynh đệ tương tàn miền Nam miền Bắc, bên Nam đánh nhau với sự viện trợ và vũ khí của Mỹ, bên Bắc đánh nhau để thực hiện nhiêm vụ „tiền đồn cho phe xã hội chủ nghĩa“ với vũ khí và lương thực của Nga và TQ. Nga và TQ không hề hấn gì, VN chỉ còn lại hoang tàn và hàng triệu người chết.
Nếu nhà cầm quyền VN tiếp tục tăm tối như vậy, lịch sử đớn đau sẽ lặp lại. Khi chiến tranh Trung- Mỹ xẩy ra, dân VN sẽ có được một hân hạnh cũ: làm cái „đệm thịt người“ đi chết cho quyền lợi của TQ, để TQ được yên ổn xây dựng chủ nghĩa xã hội. Người TQ sẽ giẫm lên những xác chết của người VN mà tiến ra biển Đông. Người VN sẽ lại bị ép buộc mà chết hoặc ngu muội mà chết hoặc bị lừa đảo mà chết nhưng vẫn tự hào rằng chúng ta sẵn sàng hy sinh đến giọt máu cuối cùng để bảo vệ thành trì của đất nước và chủ nghĩa xã hội.
Nghe thế tưởng như chuyện đùa, nhưng không đùa một chút nào, nếu chúng ta nghe phát biểu của các vị lãnh đạo cao cấp VN và xem hành xử của họ.
Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đến năm 2009 còn tuyên bố: „Việt Nam Cu ba như là trời đất sinh ra. Một anh ở phía Đông, một anh ở phía Tây. Chúng ta thay nhau canh giữ hòa bình cho thế giới. Cu ba thức thì VN ngủ, Việt Nam gác thì Cuba nghỉ“( phát biểu trong chuyến thăm Cuba năm 2009).
Nay thì Cuba đã ngủ theo Mỹ, bỏ nhiệm vụ cùng VN thức canh hòa bình thế giới. Vậy còn VN lẻ loi thì thức canh hòa bình cho TQ vậy! Việc đó đã có Đảng CS VN trước sau kiên định lập trường lo liệu chu toàn.
Một dải đất sạch bóng người VN sau chiến tranh Trung - Mỹ là điều người TQ thấy vô cùng quyến rũ. Đặc biệt là cái chết ấy lại do chiến tranh và do Mỹ chịu trách nhiệm..
Xuất khẩu chiến tranh ra ngoài lục địa Trung hoa để thực hiện những mưu đồ khác là điều mà nhà cầm quyền TQ khôn ngoan chí ít cũng đã làm cho dân của họ. Còn VN thì lại chỉ có khả năng nhập khẩu chiến tranh về tàn hại đồng bào của mình.
Thời cơ cứu nước và chặn chiến tranh
Để bảo vệ mạng sống, người dân VN cần tỉnh táo chống lại khuynh hướng „nhập khẩu chiến tranh“. Đấu tranh bảo vệ đất nước bằng cách chống lại việc bán nước cho TQ của một số kẻ cầm quyền tham lam và đớn hèn chính là cách để ngăn chặn hữu hiệu.
Vì sao Hồng kông - một thành phố nhỏ, dù đã bị trao trả cho TQ nhưng chính quyền nơi này đã không chấp nhận sự áp đặt chính trị của TQ, TQ dù hận tận xương tủy vẫn không dám giở trò đàn áp?
Vì sao Đài loan cũng là lãnh thổ đã bị trao trả cho TQ nhưng Đài loan vẫn ngang nhiên thách thức TQ mỗi khi TQ định làm điều gì đó ảnh hưởng đến sự độc lập và quyền lợi đảo này?
Vì sao Hàn quốc sống ngay bên cạnh Triều tiên hung hãn luôn muốn triệt phá Hàn quốc bằng chiến tranh hạt nhân nhưng Hàn quốc vẫn phát triển lớn mạnh?
Vì sao nước Nhật yên ổn có một nền chính trị tiên tiến, ổn định và văn minh, mức sống cao gấp khoảng 30 lần so với người VN?
Là vì họ đã không nhập khẩu chiến tranh, đã kiên quyết nói không với cộng sản và chủ nghĩa xã hội. Họ không cần đầu tư nhiều tiền vào quân sự vì được bảo vệ bởi những lực lượng quân sự đứng đầu thế giới như Mỹ và khối NATO. Khối này chưa bao giờ phản bội họ.
Người VN hoàn toàn có thể làm được một việc lớn là ngăn chiến tranh Trung - Mỹ xẩy ra.
Thời cơ cứu nước càng đến gần với VN khi vào ngày 24/6/2015, Thượng viện Mỹ đã chính thức thông qua Dự luật HR1314 trong đó có Dự luật trao quyền đàm phán thương mại cho Tổng thống Mỹ và Dự luật hỗ trợ tổn thất cho những người Mỹ bị ảnh hưởng bởi các hiệp định tự do thương mại quốc tế.
Không nghi ngờ gì nữa, nước Mỹ đã rất linh hoạt trong việc giao cho Tổng thống Obama một đặc cách để quyết định đẩy nhanh đàm phán Thỏa thuận quan hệ đối tác thương mại T-Tip và đầu tư Xuyên Đại Tây Dương cũng như Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP)và đặc biệt phục vụ cho quyền lợi của Mỹ ở biển Đông trong đó có liên quan đến việc liên kết chặt chẽ với VN.
VN cần phải nắm lấy bàn tay mà tổng thống Mỹ đưa ra để trở thành đồng minh thực sự của Mỹ và khối NATO. Đây là khoảnh khắc mà Mỹ mở rộng vòng tay hơn bao giờ hết, bởi chính quyền lợi của Mỹ ở biển Đông. Lúc đó Mỹ và khối NATO sẽ tự động bảo vệ VN theo hiệp định tương hỗ quân sự.
Trong tình thế đó, TQ bị buộc phải thay đổi cách hành xử, từ bỏ ảo vọng chiếm VN và và độc chiếm biển Đông. Chỉ có như thế, chiến tranh mới không xẩy ra.
Như thế, người VN mới thoát được ách nô lệ ngàn năm của TQ và ách nô lệ cộng sản.Và trước hết, gần nhất, là thoát được cuộc chiến tranh mà người VN không nhũng chịu mất nước về tay TQ mà còn phải chết cho TQ. Cuộc chiến đó không đưa VN trở về thời kỳ đồ đá vì ngay cả đá cũng nát và chỉ còn tro xương của người VN cọ vào nhau trong gió của những cánh đồng chết.
VTH
Báo Trung Quốc tự khen: "Tập Cận Bình thể hiện phong độ nước lớn với Nhật"
Lãnh đạo Trung Quốc Tập Cận Bình bắt tay Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe vào ngày 10 tháng 11 năm 2014
“Thể hiện phong độ nước lớn”
Mạng quân sự sina Trung Quốc ngày 12 tháng 7 có bài viết cho rằng, tại Hội nghị thượng đỉnh Ufa kết thúc vào ngày 10 tháng 7 của Tổ chức hợp tác Thượng Hải (SCO) và các nước BRICS, Thứ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Trịnh Quốc Bình tiết lộ, nhà lãnh đạo Trung Quốc Tập Cận Bình đã đưa ra lời mời Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe đến tham dự hoạt động kỷ niệm tròn 70 năm chiến thắng (chống phát xít, chống Nhật).
Theo bài báo, lời mời này gây ngạc nhiên cho cả dư luận Trung Quốc và quốc tế, gây phỏng về khả năng quan hệ Trung-Nhật xuất hiện một bước ngoặt mới.
Bài báo tuyên truyền cho rằng, trong nhiều bài phát biểu của Tập Cận Bình nhân dịp kỷ niệm một hoạt động chiến tranh nào đó ở Trung Quốc, ông Tập Cận Bình đều nói đến từ "hòa bình", tức là muốn tuyên bố với thế giới về hòa bình, về bảo vệ hòa bình, chứ không phải gây xung đột, tiếp tục thù hận.
Những năm qua, quan hệ Trung-Nhật đi từ "lạnh nhạt về chính trị, nồng ấm về kinh tế" chuyển sang "lạnh nhạt cả về chính trị và kinh tế" bị bài báo đổ lỗi là do ở Nhật Bản có người "bái quỷ" (tức là chỉ Thủ tướng Shinzo Abe và các quan chức cấp cao Nhật Bản thăm ngôi đền Yasukuni).
Tàu cảnh sát biển Trung Quốc hung hăng đến vùng biển đảo Senkaku để đối đầu với Nhật Bản
Bài báo tự khen những tuyên bố về hòa bình của Tập Cận Bình, và cho rằng, Trung Quốc và Nhật Bản là những "nước lớn" trong khu vực và trên thế giới, nếu để cho quan hệ song phương xấu đi tùy tiện thì hòa bình của châu Á có thể bị phá vỡ bất cứ lúc nào.
Theo bài viết, hai bên cần xuất phát từ đại cục, từ bỏ tư duy “tổng bằng không” - tức là từ bỏ “ăn miếng trả miếng”.
Bài viết đề cập đến sự kiện Tập Cận Bình tham dự hoạt động giao lưu hữu nghị Trung-Nhật vào tháng 5 vừa qua. Khi đó, ông Bình nói rằng, phương châm cơ bản của Trung Quốc sẽ không thay đổi, sẵn sàng cùng Nhật Bản, trên cơ sở 4 văn kiện chính trị Trung-Nhật, thúc đẩy hợp tác láng giềng hữu nghị giữa hai nước.
Bài báo cho rằng, câu nói này của ông Bình là để mở đường cho lời mời Thủ tướng Shinzo Abe lần này. Bài báo tự sướng cho rằng, Trung Quốc là "nước lớn có trách nhiệm", cần thiết mời ông Shinzo Abe tham dự trong thời điểm lịch sử quan trọng của quan hệ Trung-Nhật.
"Đây vừa là phương châm nhất quán của Trung Quốc đối với Nhật Bản dựa trên lịch sử và chính nghĩa, vừa là một thái độ thẳng thắn không sợ thách thức, hướng tới hòa bình" - bài báo viết.
Tàu Trung Quốc hung hăng nhưng bị tàu tuần tra Nhật Bản kiên quyết ngăn chặn
Bài viết cho rằng, mời lãnh đạo nước thua trận tham dự hoạt động kỷ niệm Chiến tranh thế giới lần thứ hai hoàn toàn không phải là việc hiếm, Thủ tướng Đức Merkel là khách quen của rất nhiều hoạt động kỷ niệm. Sự xuất hiện đồng thời của nước chiến thắng và nước thua trận hoàn toàn không phải là phô trương.
Làm như vậy để tuyên bố với thế giới: hòa bình chứ không phải chiến tranh, hợp tác chứ không phải đối đầu mới là chủ đề vĩnh hằng của tiến bộ trong xã hội loài người.
Bài báo nghĩ rằng, ông Shinzo Abe "có sự thụt lùi về vấn đề lịch sử", đến Trung Quốc tham gia hoạt động kỷ niệm ít nhất sẽ có 3 "thu hoạch" lớn:
Một là nghe được những tiếng nói chủ yếu của thế giới về Chiến tranh thế giới lần thứ hai. Hoạt động kỷ niệm ngày chiến thắng do Trung Quốc tổ chức vào ngày 3 tháng 9 sẽ có rất nhiều chính khách thế giới tham dự. Theo bài báo, Trung Quốc muốn ông Shinzo Abe nghe thấy "trên thế giới yêu chuộng hòa bình, phản đối chiến tranh" là giai điệu chính.
Hai là, bài báo cho rằng Trung Quốc muốn thể hiện "quyết tâm và sức mạnh bảo vệ hòa bình". Tức là Trung Quốc sẽ phô trương lực lượng và vũ khí trang bị tiên tiến của họ trong cuộc duyệt binh quy mô lớn.
Máy bay, tàu chiến Trung Quốc hung hăng ra biển Hoa Đông, nhưng luôn bị Nhật Bản theo dõi chặt chẽ, thậm chí chụp được ảnh và công bố cho thế giới biết
Khi đó, ông Shinzo Abe – người ra sức thúc đẩy thực hiện quyền tự vệ tập thể và đưa Nhật Bản trở thành quốc gia bình thường - sẽ thấy được "lực lượng bảo vệ hòa bình lớn mạnh" (ý nói là Quân đội Trung Quốc), từ đó "giúp ông Abe nhìn nhận sáng suốt về các hành vi trong quá khứ của ông" – bài báo dọa nạt.
Ba là để cho ông Shinzo Abe "suy nghĩ con đường tương lai nên đi như thế nào". Ngoài tham dự hoạt động kỷ niệm, ông Shinzo Abe sẽ gặp gỡ lãnh đạo Trung Quốc. Khi đó, Tập Cận Bình sẽ nói rằng, Trung Quốc sẽ không chấp nhận bất cứ ai "phủ nhận, bẻ cong thậm chí làm đẹp lịch sử xâm lược".
Còn đối với nhân dân Nhật Bản, Tập Cận Bình sẽ nói là, "Trung Quốc sẽ không vì thiểu số quân phiệt Nhật gây chiến tranh xâm lược mà hận thù cả dân tộc này, tội ác chiến tranh thuộc trách nhiệm của thiểu số đó chứ không phải nhân dân, bất cứ ai đều không quên tội ác nghiêm trọng của kẻ xâm lược",
rằng "chỉ cần nhân dân hai nước Trung Quốc và Nhật Bản thực sự hữu nghị, ứng xử có đạo đức với nhau thì nhất định có thể thực hiện tình hữu nghị đời đời" - báo Trung Quốc tuyên truyền và hy vọng sẽ "làm động lòng" ông Shinzo Abe, làm ông Shinzo Abe "học được không ít" (?).
Máy bay, tàu chiến Trung Quốc hung hăng ra biển Hoa Đông, nhưng luôn bị Nhật Bản theo dõi chặt chẽ, thậm chí chụp được ảnh và công bố cho thế giới biết
Theo tuyên truyền của bài báo, mỗi lần phát biểu liên quan đến Nhật Bản thì ông Tập Cận Bình đã nhiều lần nhắc đến 2 chữ "tương lai", thể hiện Trung Quốc nỗ lực tiến hành "hòa giải", "hướng tới tương lai" - điều này đã thể hiện cái gọi là "phong độ nước lớn" của Trung Quốc - bài báo tự sướng.
Theo bài báo, gần đây, quan hệ Trung-Nhật không thiếu một số tín hiệu tích cực: Hai bên đạt được "đồng thuận nguyên tắc 4 điểm", tái khởi động các kênh trao đổi như tham vấn cơ chế liên lạc trên biển, trên không, hơn 3.000 nhân sĩ các giới Nhật Bản đến thăm Trung Quốc. Lần này Trung Quốc mời Nhật Bản là sự tiếp tục của xu thế ấm lên này.
Bài báo tự khen mình rằng, Trung Quốc đã "giơ cành ô liu" cho ông Shinzo Abe, thể hiện "trách nhiệm nước lớn", việc còn lại là tùy thuộc vào ông Shinzo Abe và nội bộ Nhật Bản, tức là bài báo đẩy "quả bóng" sang cho Nhật.
Thủ tướng Shinzo Abe: Đã được mời thì không tránh né
Tờ "Quan sát" Trung Quốc ngày 12 tháng 7 cũng có bài viết cho hay, ông Shinzo Abe đã được mời tham dự hoạt động kỷ niệm nhạy cảm (3/9), ông có đến hay không là vấn đề gây quan tâm cho dư luận.
Thủ tướng Nhật Bản kiên quyết tăng cường năng lực phòng vệ, bảo vệ nhóm đảo Senkaku và kiềm chế các hành động hung hăng của Quân đội Trung Quốc ở các vùng biển xung quanh.
Theo hãng tin Kyodo, Nhật Bản, nguồn tin từ Chính phủ Nhật Bản ngày 11 tháng 7 tiết lộ, Thủ tướng Shinzo Abe bắt đầu cân nhắc thăm Trung Quốc vào đầu tháng 9 tới. Xét thấy Trung Quốc đã gửi lời mời, ông Abe cân nhắc thăm Trung Quốc và dự định sẽ sắp xếp chương trình trước sau hoạt động kỷ niệm.
Bài báo còn cho hay, ông Shinzo Abe sẽ tham khảo cách làm của Thủ tướng Đức Merkel. Tháng 5 năm nay, Thủ tướng Đức Merkel mặc dù đã không tham dự lễ kỷ niệm tròn 70 năm chiến thắng vệ quốc của Nga, nhưng sau đó đã đến Moscow tổ chức hội đàm với Tổng thống Nga Vladimir Putin.
Theo bài báo, để khôi phục toàn diện quan hệ Nhật-Trung, ông Shinzo Abe còn hy vọng tổ chức hội đàm cấp cao với Tập Cận Bình. Nhưng, do giữa hai nước tồn tại các vấn đề như phát biểu của ông Shinzo Abe, thái độ của Trung Quốc đối với Nhật Bản và tranh chấp biển, chính phủ hai nước dự định triển khai phối hợp để đánh giá khả năng tổ chức hội đàm.
Cục trưởng An ninh quốc gia của Hội đồng bảo đảm an ninh quốc gia Nhật Bản (NSC) Shotaro Yachi có kế hoạch thăm Trung Quốc trước sau tháng 7 này và tổ chức hội đàm với Ủy viên quốc vụ phụ trách ngoại giao của Trung Quốc, Dương Khiết Trì. Theo giới thiệu của Thứ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Trình Quốc Bình, Nhật Bản vẫn chưa đưa ra phản hồi.
Lực lượng bảo vệ bờ biển Nhật Bản và Philippines tiến hành diễn tập chống cướp biển ở vịnh Manila ngày 6 tháng 5 năm 2015. Đáng chú ý, quan chức Philippines coi Cảnh sát biển Trung Quốc là cướp có vũ trang trên Biển Đông - phát biểu này được đưa ra trước khi Nhật Bản-Philippines tập trận chống cướp biển không lâu.
Tháng 11 năm 2014 và tháng 4 năm nay, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình và Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe lần lượt tổ chức hội đàm trong thời gian Hội nghị quốc tế ở Bắc Kinh và Jakarta, đã đạt đồng thuận về việc thúc đẩy quan hệ chiến lược, cùng có lợi của hai nước.
Theo tờ "Asahi Shimbun", ông Shinzo Abe cân nhắc thăm Trung Quốc vào tháng 9 tới, nhưng có thể sẽ tránh ngày 3 tháng 9.
Bài báo cho hay, ông Shinzo Abe đang tính toán thăm Trung Quốc vào thượng tuần tháng 9, tiến hành hội đàm cấp cao hai nước với ý nghĩa thực sự, trước đó, ông Shinzo Abe tuy đã có các cuộc gặp mặt với lãnh đạo Trung Quốc, nhưng đều là trong các trường hợp của hội nghị quốc tế.
Bài báo cho hay, ngày 10 tháng 7, quan chức cấp cao Trung Quốc đã chính thức mời Thủ tướng Abe tham gia hoạt động kỷ niệm tròn 70 năm chiến thắng tổ chức vào ngày 3 tháng 9.
Tờ "Asahi Shimbun" cho rằng, ông Shinzo Abe đã nói với những người thân cận rằng "Trung Quốc đã mời thì không muốn tránh né", cho thấy ý muốn thăm Trung Quốc.
Máy bay tuần tra săn ngầm P-3C Orion Nhật Bản tham gia cuộc tập trận chung với Philippines ở Biển Đông - nơi Trung Quốc đang xây dựng căn cứ tàu ngầm khổng lồ ở đảo Hải Nam.
Nhưng, bài báo cũng cho rằng, mặc dù ông Shinzo Abe có sự cân nhắc nêu trên, nhưng thượng tuần tháng 9 đúng lúc Quốc hội Nhật Bản xem xét dự luật bảo đảm an ninh, khả năng thăm Trung Quốc vẫn có nhân tố không xác định.
Bài báo còn cho rằng, nếu ông Abe lựa chọn thăm Trung Quốc vào ngày 3 tháng 9 và tham dự hoạt động kỉ niệm thì có thể sẽ gây ra bất mãn ở trong nước Nhật Bản. Vì vậy, nếu ông thăm Trung Quốc thì có thể sẽ tránh ngày 3 tháng 9, lựa chọn trước hoặc sau đó.
Những người xung quanh ông Abe cho hay, lần này cân nhắc thăm Trung Quốc cũng là tham khảo mô hình ngoại giao xử lý vấn đề tương tự của Đức cách đây không lâu. Tháng 5 năm 2015, Nga tổ chức lễ kỷ niệm tròn 70 năm chiến tranh vệ quốc, Thủ tướng Đức Merkel không tham dự lễ duyệt binh, mà lựa chọn thăm Nga một ngày sau đó, tổ chức hội đàm cấp cao với ông Putin.
Tờ "Japan News Network" cũng cho rằng, Thủ tướng Abe đã cân nhắc kế hoạch thăm Trung Quốc và tìm kiếm tổ chức hội đàm với Tập Cận Bình để thúc đẩy quan hệ hai nước tiếp tục cải thiện. Nhưng do đang đứng trước vấn đề thông qua dự luật bảo đảm an ninh của Quốc hội, ông cuối cùng có đi hay không còn có biến số nhất định.
Trung Quốc hung hăng tiến hành quân sự hóa Biển Đông, đe dọa nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam, vi phạm nghiêm trọng luật pháp quốc tế, đe dọa nghiêm trọng hòa bình, an ninh và ổn định khu vực.
Joaquín "El Chapo" hay còn được gọi là Shorty, Guzman Loera, trùm ma túy nguy hiểm nhất thế giới đã trốn thoát khỏi một nhà tù được canh phòng rất nghiêm ngặt bậc nhất Mexico.
Guzman bị bắt năm 2014.
Business Insider dẫn thông báo của Ủy ban An ninh Quốc gia Mexico hôm 12/7 cho biết, tối ngày 11/7, Guzman đã đến khu nhà tắm và ở lại trong đó lâu hơn bình thường.
Nghi ngờ, lực lượng an ninh nhà tù liên bang Altiplnano đã ập vào kiểm tra và thấy nhà tắm hoàn toàn trống rỗng. Cuộc lục soát sau đó cho thấy, Gyzman đã trốn thoát khỏi nhà tù bằng một hệ thống đường hầm dài hàng km được bí mật đào bên dưới bồn tắm.
Đường hầm cao khoảng 1,5 mét, rộng khoảng 65 cm trên thậm chí còn có hệ thống chiếu sáng và thông gió. Lần theo đường hầm, cảnh sát Mexico đã tìm thấy một chiếc xe máy. Đường hầm này kết thúc tại một khu xây dựng bị bỏ hoang.
Cảnh sát Mexico đã tạm giữ 18 nhân viên an ninh của nhà tù để thẩm vấn làm rõ vụ việc đồng thời ban hành lệnh truy nã toàn quốc đối với Guzman, tăng cường an ninh tại khu vực sân bay thành phố lân cận Toluca.
Đường hầm được đào bên dưới phòng tắm trong nhà tù.
Năm 2001, Guzman từng trả tiền cho lính canh để giúp hắn trốn thoát khỏi nhà tù an ninh cao Puente Grande, gần thành phố Guadalajara sau khi bị bắt vào năm 1993.
Sau một cuộc săn lùng kéo dài 13 năm, vào ngày 22/2/2014, thủy quân lục chiến Mexico đã bao vây căn nhà của Guzman ở Sinaloa và bắt giữ hắn khi đang cố gắng trốn thoát bằng đường hầm bí mật.
Guzman là trùm ma túy khét tiếng nhất Mexico và hàng đầu thế giới. Các hoạt động của băng đảng Sinaloa do Guzman cầm đầu làm suy yếu cam kết nghiêm túc của Tổng thống Enrique Pena Nieto nhằm kiềm chế hoạt động của các băng đảng bạo lực tại quốc gia này.
Theo các nhà chức trách Mexico, Sinaloa đã buôn lậu hàng tỷ USD cocaine, cần sa và methamphetamine vào nước Mỹ. Băng đảng này còn kích động các cuộc chiến tranh giành quyền lực với các băng đảng khác khiến hơn 100.000 người thiệt mạng kể từ năm 2007.
Trước khi Tổng thống Pena Nieto đắc cử, các chính trị gia trong đảng Cách mạng của ông đã từng chế nhạo đối thủ bảo thủ của họ vì để Guzman trốn thoát và tuyên bố điều đó sẽ không diễn ra trong chính quyền của mình.
Tin tức về vụ Guzman trốn thoát khỏi nhà tù đến khi Tổng thống Mexico đang trên đường đến Pháp. Sự kiện đã khiến một số quan chức an ninh cấp cao của Mexico phải hủy chuyến tháp tùng Tổng thống đến Pháp, nhanh chóng quay trở lại đất nước.
Vụ tẩu thoát ngoạn mục của Guzman còn có thể làm căng thẳng quan hệ giữa Mexico với Mỹ, quốc gia đã nhiều lần yêu cầu dẫn độ hắn sang nước này xét xử vì lo ngại vấn nạn tham nhũng tại quốc gia láng giềng này, Alberto Islas, một chuyên gia an ninh tại Công ty Đánh giá rủi ro và Tư vấn cho biết.
Trước khi bắt lại trong năm 2014, Bộ Ngoại giao Mỹ đã treo giải thưởng lên đến 5 triệu USD cho thông tin dẫn đến việc bắt giữ Guzman.Nguyễn Hường
Lý Hoàng Nam 'làm lu mờ' Djokovic tại Wimbledon
Wimbledon đã khiến người hâm mộ Việt Nam hầu như không còn quan tâm đến trận chung kết đơn nam giữa Novak Djokovic và Roger Federer.
Hoàng Nam (trái) đi vào lịch sử quần vợt Việt Nam - Ảnh: chụp màn hình
Vào đêm qua, Lý Hoàng Nam cùng đối tác Sumit Nagal (Ấn Độ) đã thi đấu trận chung kết giải đôi nam trẻ Wimbledon cùng cặp Reilly Opelka (Mỹ) - Akira Santillan (Nhật Bản). Opelka chính là tay vợt giành chức vô địch giải đơn nam trẻ Wimbledon trẻ năm nay.
Trận đấu diễn ra hấp dẫn khi hai bên liên tục tạo ra những cuộc rượt đuổi về điểm số. Cuối cùng, Hoàng Nam và Nagal đã bứt lên ở những thời điểm quyết định để giành chiến thắng 7/6, 6/4 và lên ngôi vô địch.
Diễn ra gần như cùng thời điểm trận chung kết đôi nam trẻ là trận chung kết đơn nam giữa hai ngôi sao Novak Djokovic và Roger Federer. Tuy nhiên, trận đấu đôi nam trẻ có sự góp mặt của Hoàng Nam đã thu hút đông đảo sự chú ý của người hâm mộ quần vợt Việt Nam.