30-4-75: GIẢI PHÓNG” NỖI KINH HOÀNG CỦA NGƯỜI DÂN VIỆT NAM.
27.04.2023 22:19
TIẾN SỸ LÊ HIỂN DƯƠNG, CỰU HIỆU TRƯỞNG ĐẠI HỌC ĐỒNG THÁP: 30-4-75: “GIẢI PHÓNG” NỖI KINH HOÀNG CỦA NGƯỜI DÂN VIỆT NAM.
Tiến Sĩ LÊ HIỂN DƯƠNG
Ngày nay hầu như nhân loại trên khắp hoàn cầu đều lấy năm Chúa Kitô giáng sinh làm mốc định thời gian, chúng ta đang ở vào năm 2010, tức là 2010 năm kể từ ngày Chúa giáng thế. Nhiều sự kiện khoa học hay lịch sử cũng được xác định dựa trên mốc thời gian này cho dù những dữ kiện đó hoàn toàn không liên quan gì đến niềm tin tôn giáo hay tín ngưỡng. Chẵng hạn nhà toán học Pythagore sinh năm 580 và mất năm 500 trước Công Nguyên, Tề Hoàn Công trị vì từ năm 685 đến năm 643 trước Công Nguyên… Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng xảy ra năm 42 sau Công Nguyên… Các văn bản bằng tiếng Anh thì dùng BC (before Christ) hoặc AD (Anno domini) để chỉ những sự kiện xảy ra trước hoặc sau Thiên Chúa giáng thế.
Riêng người Việt nam chúng ta từ trong Nam ngoài chí Bắc từ sau 30 tháng tư năm 1975 lại có một mốc định thời gian mới: “hồi trước giải phóng” hay “hồi sau giải phóng”, tất nhiên người Việt mình nghe mãi rồi quen tai và không thấy gì phản cảm khi dùng hoặc nghe cụm từ này… Nhưng khi tôi vô tình dùng nó lúc nói chuyện với một đồng nghiệp người nước ngoài rằng “…after the liberation of the south…” thì ông ta sững sốt hỏi ngay rằng “… liberation from what?…” – Giải phóng khỏi cái gì? Thì tôi mới hốt hoảng với cách dùng cụm từ này để định mốc thời gian của người Việt… bởi đối với hầu hết người Việt, nhất là người miền Nam hoặc đối với cả đồng bào miền Bắc di cư vào Nam năm 1954 nữa, thì “giải phóng” là một nỗi ám ảnh trong cả đời người…
Còn nhớ ngày 30 Tư năm 1975, lúc đó chúng tôi còn là sinh viên của đại học sư phạm Vinh đã hồ hởi, phấn khởi hò reo meeting nhiều đêm ngày để mừng Miền Nam được hoàn toàn giải phóng, bởi chúng tôi tin rằng từ đây đồng bào Miền Nam ruột thịt của chúng tôi sẽ không còn đói rách lầm than và không còn sống trong cảnh “ngụy kềm, Mỹ hãm” nữa… Họ đã được đảng và Bác cùng nhân dân Miền Bắc chúng tôi giải phóng. Và những tháng tiếp theo đó chúng tôi được tận mắt nhìn thấy hàng đàn hàng lủ bọn ngụy quyền ác ôn bị sự trừng phạt của chính quyền cách mạng, của nhân dân miền Bắc và của chính chúng tôi… Số là mỗi tuần một lần. chúng tôi được chính quyền và ban giám hiệu nhà trường thông báo vào những ngày giờ có những ô tô của cục quân pháp chuyển tù cải tạo là những sỹ quan, ngụy quyền ác ôn của chính quyền Mỹ Thiệu đi ngang qua địa phương để đến các trại cải tạo ở mạn ngược. Cùng với đồng bào địa phương, mỗi sinh viên chúng tôi phải chuẩn bị đầy đủ cơ số đá trứng nhặt từ đường ray xe lửa để khi đoàn xe tù đi ngang qua là hô hào toàn dân trút những trận mưa đá lên đầu những tên ngụy quyền ác ôn này, bởi chúng có quá nhiều nợ máu với nhân dân, với đất nước… Và sau mỗi lần trừng trị bọn ngụy quyền ác ôn đó, chúng tôi đều có hội họp, báo công và được tuyên dương khen thửơng, được kết nạp vào đoàn, được vinh dự đứng vào hang ngũ của đảng vì đã đả thương được bao nhiêu sỹ quan ngụy quyền đó. Tất nhiên là cũng có nhiều buổi họp báo công, chúng tôi cũng bị phê bình kiểm điểm vì đã không có trường hợp thương vong nào được ghi nhận trong những vụ “tập kích” đó…
Kết thúc 4 năm đại học với vô số những cuộc tập kích để ném đá vào những xe chuyển tù, rồi chúng tôi cũng tốt nghiệp đại học, rồi được đảng và nhà nước chi viện vào miền Nam để mang ánh sáng văn hóa vào cho đồng bào miền Nam ruột thịt bao năm qua sống trong u tối lầm than vì cứ liên miên bị ngụy kềm, Mỹ hãm chứ đâu có được học hành gì… Chúng tôi thực sự choáng ngợp khi xe qua khỏi vùng chiến sự Quảng Trị, đến Huế, đến Đà Nẵng.. rồi Nha Trang, Sài Gòn rồi về Miền Tây, đến thị trấn Cao Lãnh, đâu đâu cũng lầu đài phố xá chứ có tường đất mái tranh như ở thành phố Vinh chúng tôi đâu!
Nhận xong nhiệm sở từ ty giáo dục Đồng Tháp, chúng tôi được đưa về công tác tại trường trung học sư phạm Đồng Tháp ngay tại trung tâm của thị trấn Cao Lãnh, và tại đây, trong suốt nhiều năm liền chúng tôi được bố trí ở tại khách sạn Thiên Lợi mà chính quyền cách mạng đã tịch biên từ tên tư sản Thiên Lợi… Chúng tôi đi từ choáng ngợp này đến choáng ngợp khác, bởi đây là lần đầu tiên chúng tôi biết được thế nào là “Khách Sạn”, biết được thế nào là lavabo là hố xí tự hoại, bởi cả thành phố Vinh, cả tỉnh Nghệ An chúng tôi hay thậm chí cả miền Bắc XHCN lúc bấy giờ chỉ sử dụng hố xí lộ thiên, để còn dùng nguồn “phân Bắc” này để canh tác, để tăng gia sản xuất theo sáng kiến kinh nghiệm cấp nhà nước của đại tướng Nguyễn Chí Thanh mà được bác Hồ khen thưởng và có thơ ca ngợi rằng: “Hoan hô anh Nguyễn Chí Thanh Anh về phân Bắc, phân xanh đầy nhà”…
Thậm chí ở xã Hưng Lĩnh, Hưng Nguyên quê tôi lúc bấy giờ còn có cả những vụ án các tập đoàn viên, các hợp tác xã viên can tội trộm cắp phân bắc từ các hố xí của láng giềng để nộp cho hợp tác xã… Tôi thấm thía hơn với những câu thơ ca ngợi miền Bắc đi lên XHCN của Tố Hữu mà ngoài sinh viên học sinh chúng tôi ra thì hầu như cả nhân dân miền Bắc lúc bấy giờ ai cũng thuộc nằm lòng: “Dọn tí phân rơi nhặt từng ngọn lá Mỗi hòn than mẩu thóc cân ngô Hai tay ta gom góp dựng cơ đồ…”
Tôi bắt đầu nghi ngờ với cụm từ “giải phóng miền nam” … Rồi những trận đổi tiền để đánh tư sản, rồi nhiều nhà cửa của đồng bào bị tịch biên, rồi hàng triệu đồng bào bắt đầu bỏ nước ra đi, nhiều giáo sinh của trường chúng tôi cũng vắng dần theo làn sóng đi tìm tự do đó… tôi bắt đầu hiểu đích thực ý nghĩa của cụm từ “giải phóng niền nam” và bắt đầu cảm thấy xấu hổ cho bao nhiêu năm sống trong niềm ảo vọng mù quáng của bản thân… mà dù ở chừng mực nào cũng được xem là thành phần trí thức trong xã hội…
Dần dần tôi hiểu sâu hơn cái sự mỉa mai chua chát của hai từ “GIẢI PHÓNG” đang được dùng trong kho tàng Tiếng Việt của nước nhà… “Giải phóng miền nam” thực sự có mang lại niềm vui, niềm hạnh phúc vô biên và cả sự thịnh vượng nữa với gia sản có thể đột ngột tăng lên cả 16 tấn vàng ròng… những tất nhiên chỉ cho một thiểu số trong xã hội, chỉ chừng 16 người trong tổng số non 50 triệu dân lúc bấy giờ thôi… Còn lại thì “giải phóng” đồng nghĩa với cảnh côi cút vì “sinh bắc tử nam” mất con, mất chồng, mất cha, mất anh mất em bởi họ đã vào chiến trường và không bao giờ trở về nữa… Giải phóng cũng có nghĩa là tù đày, là cải tạo nơi rừng thiêng nước độc, là mất vợ.. mất con, mất nhà cửa ruộng vườn, mất bao nhiêu người thân trên biển cả và mất hết tự do dân chủ nhân quyền và mất luôn cả tổ quốc! Rồi “giải phóng mặt bằng” cũng chỉ mang nguồn lợi lớn lao cho một nhóm quan phương, nhưng lại là nỗi ám ảnh nỗi hãi hùng của muôn dân, bởi sau “giải phóng mặt bằng” là hàng trăm đồng bào lại phải vô tù ra khám bởi tội “chống người thi hành công vụ”, bởi sau giải phóng mặt bằng là cái chết của thiếu niên Lê Xuân Dũng và Lê Hữu Nam, là thương tật của nông dân Lê Thị Thanh … Chẳng biết người dân Việt nam từ nay còn dùng cụm từ “trước ngày giải phóng” hay “ sau ngày giải phóng” để định mốc thời gian nữa không… Riêng tôi, tôi cảm thấy quá căm thù nhân loại bởi đã bịa ra từ ngữ “giải phóng” và “giải phóng mặt bằng” mà chi để dân Việt chúng tôi vì nó mà phải khổ lụy đến dường này. Tiến Sỹ Lê Hiển Dương – Cựu Hiệu Trưởng Đại Học Đồng Tháp
Đồng Tháp ngày 16 tháng 2 năm 2015
PHẢN HỒI BÀI VIẾT CỦA TS LÊ HIỂN DƯƠNG VỀ “GIẢI PHÓNG MIỀN NAM”
Kính chào ông Lê Hiển Dương – Tiến sĩ, Cựu Hiệu Trưởng Đại Học Đồng Tháp,
Thưa Ông, bài báo ngày đầu năm 2012 vô tình tôi được đọc là bài “GIẢI PHÓNG” Nỗi kinh hoàng của người dân Nam Việt, bài viết này là của Ông. Bài được đăng trên Hải ngoại phiếm đàm online ngày 05/01/2012, cuối bài viết có ghi trọn vẹn tên tác giả cùng học vị và chức vụ. Học vị cùng chức vụ và nhất là qua bài viết của ông, cho tôi biết ông đã một thời là cán bộ giáo dục của nhà nước cộng sản hiện thời Việt Xã Nghĩa, còn tôi cũng xin vài dòng được nói về mình. Tôi một người tù mà các người cộng sản chiến thắng, gọi xách mé là sĩ quan Ngụy của 36 năm trước, trên bước đường tù biệt xứ đã hai lần, tôi đươc hân hạnh đi ngang qua thành phố Vinh của ông. Khi chúng tôi đọc xong bài của ông viết, tôi biết ông là người như thế nào, những gì ông suy nghĩ khiến chúng tôi mến ông, và thấy cần phải viết vài dòng xin được thưa chuyện cùng ông, những dòng chữ đậm là tôi xin phép ông được ghi lại những gì ông đã viết.
Không giấu gì ông, ban đầu sau khi đọc xong bài ông viết, tôi định cho nó qua, nhưng câu kết của ông như níu tôi lại, khiến tôi thấy nên nói chuyên với ông thì quí hơn, vì mấy khi ta gặp được người như ông. Ông Dương ạ câu kết ông viết Chẳng biết người dân Việt nam từ nay còn dùng cụm từ “trước ngày giải phóng” hay “ sau ngày giải phóng” để định mốc thời gian nữa không… Riêng tôi, tôi cảm thấy quá căm thù nhân loại bởi đã bịa ra từ ngữ “giải phóng” mà chi để dân Việt chúng tôi vì nó mà phải khổ lụy đến dường này. Câu này làm tôi thấy chúng ta tuy là kẻ Nam người Bắc, nhưng vô tình lại chung phận là nạn nhân, nạn nhân của kẻ bợm, chúng sống bằng sự lừa lọc dối trá, sự trí trá đó khiến biết bao người “sinh bắc tử nam” mất con, mất chồng, mất cha, mất anh mất em bởi họ đã vào chiến trường và không bao giờ trở về nữa”.
Đó là phần không may cho dân miền Bắc, còn miền Nam như ông thấy đó và ông đã viết “là tù đày, là cải tạo nơi rừng thiêng nước độc, là mất vợ mất con, mất nhà cửa ruộng vườn, mất bao nhiêu người thân trên biển cả và mất hết tự do dân chủ nhân quyền và mất luôn cả tổ quốc!”. Để rồi những kẻ bợm CS đó chúng đoạt lấy tất cả, những gi của người dân hai miền Nam-Bắc nước ta, từ cơ bản quyền làm người đến của cải vật chất, chúng dìm đời sống người dân cả nước xuống tận bùn đen, còn sự tồn vong của đất nước thì đang trong tình trạng treo chỉ mành. Trong những cái chúng cướp đoạt của đất nước, có cả 16 tấn vàng là số vàng thuộc tài sản quốc gia, mà chính phủ VNCH để lại, chúng đã chia chác nhau số vàng này, và cái tận cùng bỉ ổi là chúng lại tuyên truyền là chính quyền miền nam đã lấy số vàng đó. Nhưng nay tất cả người dân VN đều biết như ông viết, kẻ lấy số vàng 16 tấn không ai khác hơn là 16 tên chóp bu bộ chính trị CSVN “Giải phóng miền nam” thực sự có mang lại niềm vui, niềm hạnh phúc vô biên và cả sự thịnh vượng nữa với gia sản có thể đột ngột tăng lên cả 16 tấn vàng ròng… nhưng tất nhiên chỉ cho một thiểu số trong xã hội, chỉ chừng 16 người trong tổng số non 50 triệu dân lúc bấy giờ thôi…”, Cám ơn ông thật nhiều Ông Lê Hiểu Dương ạ, sự thực cuối cùng vẫn là sự thực.
Sau ngày 30 tháng 04 năm 75, trước khi chúng tôi bị đưa ra miền bắc để lưu đày, các “ông cộng sản” đã nói với chúng tôi về thiên đường cộng sản xã hội chủ nghĩa miền bắc như sau: Miền Bắc XHCN không có người nghèo kẻ giàu, không có nhà cao tầng, và cũng không có nhà lá, tất cả đều nhà gạch giống như nhau, ý nói kiểu nhà cư xá hay chung cư,- Không có kẻ rách rưới, mà kẻ khác thì dư thừa tơ lụa, tất cả đều bận kaki Nam định thoải mái. Miền bắc XHCN vật chất thì nhiều vô kể, không thiếu một thứ gì, còn trong Nam toàn thể dân chúng, và ngay cả trong trại, tất cả mọi người phải sống trong khó khăn thiếu thốn, đó là do tàn dư của chế độ tư bản Mỹ Ngụy để lại, rồi đây miền Bắc sẽ chi viện cho miền Nam(?). Nghe nói vậy cũng có nhiều anh em tù tin, xã hội cộng sản mà, tất cả đều bình đẳng, cái ăn, cái mặc, cái ở đều như nhau, chủ thuyết của Mác Lê, chả mong muốn xây dựng một nhà nước, một xã hội theo mô hình như thế là gì (!).
Nhưng cũng như ông nói, ông nhận ra sự thật khi vào nam,“Chúng tôi đi từ choáng ngợp này đến choáng ngợp khác, bởi đây là lần đầu tiên chúng tôi biết được thế nào là lavabo là hố xí tự hoại, bởi cả thành phố Vinh, cả tỉnh Nghệ An chúng tôi hay thậm chí cả miền Bắc XHCN lúc bấy giờ chỉ sử dụng hố xí lộ thiên, để còn dùng nguồn “phân Bắc” này để canh tác, để tăng gia sản xuất theo sáng kiến kinh nghiệm cấp nhà nước của đại tướng Nguyễn Chí Thanh”. Thì sự thật phũ phàng cũng đến với chúng tôi, khi chúng tôi vượt qua cầu Hiền Lương, trên bước đường lưu đày lên mạn ngược, lần đó qua cầu Hiền Lương là vào khoảng 10 giờ sáng, đây đất Đồng Hới nào thấy đâu nhà gạch, Quảng Bình quê ta nào thấy đâu giàu đẹp. Cả một vùng xác xơ đều khắp với những mái tranh vách đất tiêu điều, dọc đường thỉnh thoảng một vài ngôi nhà xây, đấy là những nhà gạch duy nhất mà chúng tôi thấy, nhìn kiểu dáng kiến trúc cho thấy chúng đã có từ thời Pháp. Cái nhiều mà chúng tôi thấy được trên chuyến đi là khẩu hiệu, suốt chuyến đi hai bên đường không biết cơ man nào là khẩu hiệu, đều là khẩu hiệu màu đỏ máu, chữ vàng, to có nhỏ có, dài có ngắn có, ca ngợi hết lời tình hữu nghị Việt Hoa, như răng với môi, như anh với em, tình đồng chí đời đời bền vững. Ngoài ra cũng không ít những cái suy tôn họ Hồ, họ Mao, Các Mác, Lê Nin, tất cả các chữ dao to búa lớn như vĩ đại, vô địch, quang vinh.v.v…đều được đem ra dùng tối đa.
Cũng ngay trong lần đầu diện kiến dung nhan thiên đường cộng sản đó. Xe vừa vào tới Đồng Hới, thì đậu tập trung chờ lịnh bên đường, tình cờ giờ tan trường, những trẻ học trò tò mò đứng nhìn đoàn xe bít bùng. Học sinh là mầm non đất nước, tương lai của cả một dân tộc, mà dường như những đứa trẻ này, thiếu ăn như lủ tù chúng tôi hay sao?, mà nhìn chúng gầy và xanh quá, quần áo chúng luộm thuộm rách rưới. Vậy mà chúng lại đang sống trong cái thiên đường XHCN, do đảng cộng sản quang vinh tể trị… cái khăn quàng màu máu trên cổ chúng, nói thêm một điều nữa, Chúng là cháu ngoan họ Hồ. Chúng đang học tập và theo gương Bác vĩ đại của chúng, nhưng không hiểu lý do gì mà nhìn chúng thảm quá, như phường ốm đói. Đấy ông Dương thấy không, tôi có khác mấy chi ông khi ông đặt chân vào miền Nam như ông nói, “Chúng tôi thực sự choáng ngợp khi xe qua khỏi vùng chiến sự Quảng Trị, đến Huế, đến Đà Nẵng.. rồi Nha Trang, Sài Gòn rồi về Miền Tây, đến thị trấn Cao Lãnh, đâu đâu cũng lầu đài phố xá chứ có tường đất mái tranh như ở thành phố Vinh chúng tôi đâu!”. Ông Lê Hiển Dương mến, quê ông là Vinh, quê ngoại tôi cũng là Vinh, nhưng tôi không sống ở đó, tôi chỉ được cái hân hạnh đi ngang qua thành phố Vinh hai lần, năm 1975 trong lúc chuyển tù từ nam ra bắc. Và năm 1981 sau khi TQ đánh vùng phía bắc sáu tỉnh biên giới, chúng tôi đựơc di dần vào trong, chuyến xuôi nam bất đắc dĩ, mà nhà nước cộng sản không muốn tí nào, tôi biết chắc như thế. Họ muốn chúng tôi phải vùi thân nơi núi rừng tây bắc họ mới vui, lý do gì thì ông thừa biết phải không ông Dương, những gì ông nói ra cho thấy ông rất thành thật, vì những gì ông làm cho chúng tôi tại Vinh. Thì tại các nơi khác người dân nơi ấy cũng làm theo một cách như ông, vì đó là chính sách chung của Đảng, ông ném đá thì họ cũng ném đá, thậm chí có người xấn xổ nhổ nước bọt vào chúng tôi. Thoạt đầu thì chúng tôi khó chịu vì sự lỗ mãng của họ, nhưng khi thấy những nụ cười đểu của bọn cán binh áp tải, thì chúng tôi nhận ra ngay đấy là những gì người dân bị “make up”, hoàn cảnh chúng tôi lúc đó, không khác gì cảnh trong những thước phim tài liệu “đấu tố” cải cách ruộng đất năm nào.
Ông nói “những tháng tiếp theo đó, chúng tôi được tận mắt nhìn thấy hàng đàn hàng lủ bọn ngụy quyền ác ôn, bị sự trừng phạt của chính quyền cách mạng, của nhân dân miền Bắc và của chính chúng tôi… Số là mỗi tuần một lần, chúng tôi được chính quyền và ban giám hiệu nhà trường thông báo, vào những ngày giờ có những ô tô của cục quân pháp, chuyển tù cải tạo là những sỹ quan, ngụy quyền ác ôn của chính quyền Mỹ Thiệu đi ngang qua địa phương, để đến các trại cải tạo ở mạn ngược. Cùng với đồng bào địa phương, mỗi sinh viên chúng tôi phải chuẩn bị đầy đủ cơ số đá trứng nhặt từ đường ray xe lửa, để khi đoàn xe tù đi ngang qua, là hô hào toàn dân trút những trận mưa đá lên đầu những tên ngụy quyền ác ôn này, bởi chúng có quá nhiều nợ máu với nhân dân, với đất nước…Và sau mỗi lần trừng trị bọn ngụy quyền ác ôn đó, chúng tôi đều có hội họp, báo công và được tuyên dương khen thửơng, được kết nạp vào đoàn, được vinh dự đứng vào hang ngũ của đảng, vì đã đả thương được bao nhiêu sỹ quan ngụy quyền đó. Tất nhiên là cũng có nhiều buổi họp báo công, chúng tôi cũng bị phê bình kiểm điểm vì đã không có trường hợp thương vong nào được ghi nhận trong những vụ “tập kích” đó…” Nay đã hơn ba mươi sáu năm, sau ngày oan nghiệt của vận nước, muốn hay không muốn chúng ta cũng phải thấy, Nam hay Bắc đều là nạn nhân của bọn cộng sản vong nô, chúng tôi không trách ông đâu Ông Dương ạ. Thứ nhất vì cái thành thật của ông làm chúng tôi mến, thứ đến là đã có người xin lỗi chúng tôi thay cho ông rồi, những người làm việc tạ lỗi với chúng tôi là những người nghèo bán hàng rong tại nhà ga thành phố Vinh của ông. Chúng tôi cảm được cái ray rứt trong lòng ông qua câu ông viết “Kết thúc 4 năm đại học với vô số những cuộc tập kích để ném đá vào những xe chuyển tù, rồi chúng tôi cũng tốt nghiệp đại học…”.Nên chúng tôi xin mạn phép gởi đến ông một đoạn ký sau đây để ông đọc, mà thấy được rằng cái thật luôn tỏa sáng và làm rung động lòng người, cũng tựa như cái thật của ông đã làm cho chúng tôi mếm. XUÔI NAM…. …Ðoàn tàu vẫn tiếp tục lăn bánh, hướng về nam với rộn rã của tiếng bánh xe gõ nhịp trên đường ray, tấm bảng cắm bên đường cho thấy ga kế tiếp là nhà ga Vinh. Thành phố Vinh là quê ngoại của Mẹ tôi, thuở còn nhỏ Mẹ theo Ngoại nhiều lần về Vinh. Nhận xét về quê của mẹ sau bao nhiêu năm nhìn lại, trong lần ra bắc thăm nuôi tôi, Mẹ bùi ngùi nói không có gì thay đổi, tất cả vẫn như xưa, có chăng là mọi vật cũ đi theo thời gian mà thôi. Còn tôi tuy biết Vinh là quê ngoại, nhưng trong tôi, sau năm 75 trong chuyến lưu đày ra xứ bắc, tôi cũng đã qua đây vào một đêm, nhưng tình cảm lần đầu tiên đó, không phải thứ tình cảm bồi hồi nao nao, khi đi qua chốn mà mình biết đó là quê mẹ.
Ðêm đó qua đây lúc trời đã tối, nhà ga tỉnh lẻ, tôi nhìn qua vách xe, trong ánh sáng vàng đèn trứng vịt mù mờ, vài người bán hàng rong hỏi vọng vào trong xe, mời chúng tôi mua bánh. Vài anh tù vô tình trả lời họ, và thế là sau khi họ biết chúng tôi là tù miền nam, thì những viên đá nhặt từ đường ray ném tới tấp vào thùng xe, kèm theo lời chửi thô tục, nghe đâu có vài anh tù ở xe phía trước vì tò mò, thò đầu ra khỏi tấm bạt để nhìn cho rỏ, đã nhận ngay viên đá củ đậu vào đầu, máu ra ướt áo. Cán bộ sau đó qua sự việc này để mà lên lớp chúng tôi, anh ta nói do thấu triệt chính sách khoan hồng nhân đạo, mà đảng đã giáo dục, nên nhân dân chỉ ném đá mà thôi, nếu không có đảng dạy, thì nhân dân đã cắt cổ chúng tôi rồi(?). Ðoàn xe từ từ vào ga, kinh nghiệm của lần ra, nay lần về phải cẩn trọng, chúng tôi không muốn ăn đá củ đậu. Chúng tôi giữ im lặng, không trả lời bất cứ tiếng mời mua hàng, hay tiếng gõ vào thành tàu của người mua đồ cũ… Bánh mật… mía… chuối… ai mua không?… Quần áo cũ… đồ cũ… ai bán không?… khung cảnh nhà ga ồn hẳn lên, với lời rao của kẻ mua người bán, và đặc biệt là trong toa càng lặng tiếng, thì người mua kẻ bán đứng dưới đường ray càng gào to. Bổng quản chế áp tải tù, chúng được lịnh cho phép nghỉ giải lao, chúng í ới gọi nhau vào nhà ga để chè lá, thấy thế các người mua bán rong, vội ùa đến gần con tầu hơn, áp sát miệng vào khe hở thành toa mà rao to. Một anh mua đồ cũ, vô tình rao đúng chỗ của anh Khanh “mù” ngồi, anh Khanh xuất thân võ bị Ðàlạt và cận nặng, nên anh em thêm chữ mù sau tên anh mà gọi cho vui. Máu tếu nổi lên anh Khanh hỏi: -Có bộ đồ tù rách mua không?… Một bất ngờ và ngỡ ngàng đến với chúng tôi, thay vì là câu chửi thề, hay chuyện gì đó như ném đá, để đáp lại câu nói của anh Khanh như chúng tôi nghĩ, thì lại là tiếng reo vui thật to: -Tầu chở tù về Nam bà con ơi… sau đó qua các khe hở của vách tầu… chuối, mía được nhét vào cho chúng tôi, thật tôi không tin những gì tôi thấy. Bấy giờ buổi sáng trời vừa nắng lên khoảng chín giờ sáng, đâu phải đêm đen đâu mà không thấy những gì đang diễn ra trước mắt mình. Từ khe hở ngay chỗ tôi, tôi cũng được một cái bánh mật, bánh còn ấm nóng, đây là bánh của người dân quê xứ Nghệ, làm từ bột trộn với đường mật, gói lá chuối xong đem hấp hay luộc, đường mật mà trong nam ta gọi là đường chảy hay đường thùng. Ăn bánh mật hơi giống như ăn bánh ếch trong nam, không ngon bằng bánh ếch, vì nó không có nhân. Nhưng quí vị ạ, miếng bánh mà tôi đưa vào miệng , tôi ngậm nó mà nghe ngọt tận tâm can, tôi không muốn nuốt vì sợ mất, mất những gì đang đến với tôi trong suy nghĩ, trong cảm xúc. Tới đây chắc quí vị nghĩ là tôi càn rở ăn nói lung tung chăng, không đâu, cảm xúc đang trào dâng trong tôi, thật ngọt ngào và ấm áp lắm. Ngày nào cộng sản tuyên truyền, gọi chúng tôi là lính đánh thuê, chúng tôi là dã thú, ăn gan uống máu người. Ðưa chúng tôi ra Bắc, chúng thật an tâm, chúng tôi mà trốn trại ư?, tai mắt nhân dân, sẽ giúp chúng bắt chúng tôi lại dễ dàng, nhưng sau đó chúng biết chúng lầm, dưới ánh mặt trời làm sao chúng che đậy mãi cái gian manh của chúng. Và hôm nay theo thời gian, đã xóa sạch những gì cộng sản bôi bẩn chúng tôi. Từ ngay trong lòng người dân, người dân của phần đất Xô Viết Nghệ Tỉnh, mà cộng sản cai trị giáo dục họ từ những năm đầu họ Hồ du nhập chủ thuyết cộng sản vào Việt nam. Nay chúng tôi đã có chỗ, chổ chúng tôi là trong lòng những người dân nghèo bán rong, người mua đồ cũ, họ chia sẻ cho chúng tôi những gì họ có, trong nhà ga này, nhà ga Vinh, quê ngoại tôi, mà hơn năm năm về trước, họ ném vào chúng tôi bằng những viên đá xanh, to bằng nắm tay, mà họ nhặt từ đường ray. Những gì cộng sản tuyên truyền, nhồi sọ người dân quê Ngoại tôi, hay nói chung là cả miền Bắc, nay đã bị cái thật đánh gục. Chuyến xuôi nam này, quả đúng với câu niềm vui nối tiếp niềm vui, hôm nay người dân ga Vinh họ chuyền qua khe hở vách toa tàu, những lóng mía, những quả chuối lẻ, cùng bánh mật, những thứ này là vốn liếng của kẻ nghèo, mua bán hàng rong trong sân ga. Bằng chính rổ cơm của gia đình, họ đãi chúng tôi, những người tù miền nam, mà chính quyền cộng sản gọi là Ngụy. Nguyên do đâu sự việc này xảy đến?. Lý do gì mà tình cảm, của những người nghèo cùng khổ này, dành cho chúng tôi?. Chúng tôi chưa từng gặp họ, họ ở lại Bắc, chúng tôi xuôi Nam, bao giờ biết găp lại?, rổ hàng của họ ít ỏi lắm, mỗi người chỉ dăm quả chuối, dăm lọn mía, ít bánh mật. Cái gì đã thôi thúc, khiến họ cho đi?, phải là một cái gì đó mãnh liệt lắm. Gần sáu năm trong nhà tù cộng sản tại miền bắc, trong khoảng thời gian này tôi đã nhìn thấy quá nhiều biến đổi từ mọi phía, mọi lãnh vực, từ người dân đến cán binh, cán bộ cộng sản. Những sắt máu giáo điều không còn giá trị đối với mọi người, những son những phấn tô lục chuốc hồng, cho chế độ XHCN đã lã chã rơi, lộ nguyên trạng những gì bọn chúng cố dấu. Một câu nói trong Kinh Thánh: “Những gì của César hãy trả lại cho César” thật đúng cho cả hai bên, cho chúng tôi và cho cả cộng sản. Bọn cán bộ áp tải đã trở lại, con tàu kéo còi từ từ chuyển bánh, qua khe hở tôi dõi nhìn, những người mua bán hàng rong trong sân ga, cho đến mãi khi không còn nhìn thấy cả họ lẫn nhà ga. Trời vào trưa nắng thật đẹp, mây có che thì chỉ một lúc nào thôi, sau đó trời vẫn lại rực rỡ như xưa….
Nghĩa trang của tập đoàn cán bộ vc và
cuộc sống của dân nghèo...
Tọa lạc trên 9 quả đồi, cùng 9 dòng suối tự nhiên, công viên nghĩa trang xanh Lạc Hồng Viên mang hình dáng của một con rùa khổng lồ đang bơi.
Sát trục đường quốc lộ 6, cách trung tâm Hà Nội CS chừng 50 km, và thành phố Hòa Bình 20km, là một siêu công viên nghĩa trang xanh mang tên Lạc Hồng Viên (huyện Kỳ Sơn, Hòa Bình). Nghĩa trang này nằm trên mảnh đất của 9 quả đồi rộng gần 100 ha, được coi là lớn nhất Đông Nam Á.
Công viên nghĩa trang khi xây dựng được chọn lựa kỹ càng dựa trên những phân tích tâm linh, và khoa học của các nhà phong thủy, địa lý … Lạc Hồng Viên nằm trên vị trí hội tụ đủ tứ Linh: Long – Ly – Quy – Phượng.
9 quả đồi mang hình dáng một con rùa khổng lồ đang bơi, cùng 9 con suối tự nhiên tượng trưng cho một đời người khi trở về nơi chín suối.
Quy hoạch các ngôi mộ được bố trí dựa trên nghiên cứu phong thuỷ, và mô hình bát quái theo mệnh người đã khuất.
Thông thường một phần mộ bán giá 15 triệu đồng, tuy nhiên nếu khách hàng muốn yêu cầu cao hơn có thể mua một mét vuông đất với giá từ 8-9 triệu đồng. Phương cách xây dựng mộ theo phong thuỷ, ngũ hành, sẽ giúp nhân thân những người đã khuất lựa chọn giải pháp tối ưu theo can, chi, mệnh của Kinh dịch.
Xung quanh khu nghĩa trang có các con suối tự nhiên sẽ tạo ra được nhiều khí. Khí và thủy luôn vận hành tạo ra các nguồn sinh khí mới tốt lành, để cho vạn vật sinh sôi và phát triển.
Công viên nghĩa trang được thiết kế hiện đại, bảo đảm đạt tiêu chuẩn tất cả các yếu tố cảnh trí, và môi trường. Trong ảnh là các khu mộ “biệt thự” của công viên nghĩa trang.
Theo lãnh đạo công viên nghĩa trang: mặc dù chưa khánh thành dự án, nhưng đã có hơn 400 người quá cố được chôn cất tại đây, và Lạc Hồng Viên đã bán được khoảng 60-70% diện tích đất. Nhiều đại gia có tiếng cũng tìm đến mua sẵn.
Mộ tại nghĩa trang được thiết kế đa dạng từ mộ đơn, mộ đôi, cho đến phần mộ gia tộc được bố trí trên 6 đồi: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ và tượng Phật .
Nhiều nơi được bố trí bàn uống nước bằng gỗ thơm, xích đu, để người nhà khi viếng mộ có thể ngồi uống trà, nghỉ ngơi. Bên ngoài khuôn viên là bể chứa nước ngầm, và một nhà vệ sinh lưu động. Một khu mộ như vậy, trị giá vài tỷ đồng .
Ngoài các dịch vụ chăm sóc phần mộ tại nghĩa trang như: lau chùi, tỉa cây cảnh, thắp hương vào ngày rằm, mùng một hàng tháng, Lạc Hồng Viên còn có dịch vụ độc đáo nhất chưa từng có trên thế giới: đó là dịch vụ cúng giỗ online.
Lối lên các khu mộ biệt thự được thiết kế tiện lợi, dễ di chuyển.
Ông Trần Tuấn Anh (Phó Tổng giám đốc công ty xây dựng Toàn Cầu, đơn vị thi công nghĩa trang) cho biết: công viên nghĩa trang còn có dịch vụ thẩm mỹ cho người đã mất, và thủy táng. “Thủy táng dùng nước đẩy nhanh quá trình phân hủy. So với hỏa táng, tác động ra môi trường chỉ là 30%. Ưu việt nữa là kết quả tro cốt đẹp hơn, trắng, mịn.. Hỏa táng thì nóng, còn thủy táng thì không, công nghệ này của Anh Quốc, trên thế giới chỉ có mấy Tiểu bang của Mỹ, Anh, Đức sử dụng”, ông Tuấn Anh nói.
Lê Hiếu .
RỒI NHÌN CẢNH SỐNG ĐÓI KHỔ CỦA DÂN NGHÈO TRÊN CẢ NƯỚC so với nghĩa trang, và giường 6 tỷ ….
VIỆT NHÂN
Quốc Hận 30 Tháng 4 Niềm Đau Còn Đó
Biến cố ngày 30 tháng 4 năm 1975 để lại một trang sử đau thương nhất cho dân tộc Việt Nam thời hiện đại, cả nước bị nhuộm đỏ dưới gông cùm cộng sản, đồng thời khởi đầu cho một cuộc di cư vĩ đại nhất lịch sử loài người, hàng trăm ngàn người Việt Nam không thể sống nổi dưới chế độ công sản bạo tàn, nên đã đau đớn bỏ nước ra đi, lênh đênh trên các con tàu định mệnh, vượt đại dương tìm tự do cùng trời cuối đất để được sống cho ra một con người, và từ đó hình thành cộng đồng người Việt quốc gia tại hải ngoại, mà trong lòng niềm nhớ nước khôn nguôi và canh cánh bên lòng chờ mong một ngày nào đó lá cờ vàng ba sọc đỏ lại bay phất phới trên quê hương yêu dấu.
Trong suốt 21 năm kể từ khi Hiệp định Genève 27/1/1954 do cộng sản Bắc Việt tuân lệnh Trung cộng chia đôi đất nước cho đến ngày Quốc Hận 30/4/1975, miền nam Việt Nam sống dưới chế độ tự do dân chủ, mặc dù trong hoàn cảnh chiến tranh bảo vệ tổ quốc, dân chúng vẫn được sống trong tự do no ấm dưới chính nghĩa quốc gia và dưới sự bảo vệ của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa một lòng Bảo Quốc An Dân, thì cộng sản Bắc Việt vì đã ký kết hiệp định chia đôi đất nước, vừa sợ tội với tổ tiên, vừa phải tuân hành lệnh của cộng sản quốc tế Nga Tàu để biến Việt Nam thành một nước cộng sản vô thần, nên Hà Nội đã tiến hành cuộc chiến tranh ngụy danh là chống Mỹ cứu nước, giải phóng miền nam, thống nhất tổ quốc mà chính Lê Duẫn,Tổng bí thư của đáng cộng sản Việt Nam đã tuyên bố “ Ta đánh Mỹ là đánh cho Liên sô và Trung quốc". Rỏ ràng là tay sai cho cộng sản quốc tế không chối vào đâu được. Người nào biện minh nói cộng sản Việt Nam dám đánh Trung cộng năm 1979 trong cuộc chiến tranh biên giới thì hảy nhớ đến câu “Giặc cùng chớ đuổi, con chó dù trung thành đến chủ tới đâu nhưng dồn nó đến đường cùng, tất nó sẻ cắn lại”.
Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã anh dũng và tận lực bảo vệ quốc gia, suốt 21 năm không để một tỉnh lỵ nào lọt vào tay cộng sản. Nếu cộng sản giỏi thì đã chiếm được phần lớn lãnh thổ quốc gia và đã không chết trên hai triệu quân so với khoảng ba trăm ngàn quân của quân đội quốc gia và đồng minh tử trận. Riêng số tù binh được trao trả thì cộng sản được trao trả gấp năm đến sáu lần số tù binh Việt Nam Cộng Hòa. Một đoạn bài viết trên báo Tuổi Trẻ online ngày 29/4/2013 tại Việt Nam ghi nhận suốt tháng 2 và 3 năm 1973 tại Lộc Ninh, Bồng Sơn, Thiện Ngôn, Tam Kỳ, Gia Lai, phía Bắc Việt nhận 26,492 bộ đội cùng 5,075 nhân viên dân sự, và trả lại cho Saigon 6,063 người. Đặc biệt trong ngày 21/3/1973, Việt Nam Cộng Hòa trao trả 1,200 tù binh cộng sản và nhận lại chỉ có 3 tù binh VNCH bị thương nằm trên cáng tại bờ sông Thạch Hản. Quân lực ta thắng rất nhiều trận mới giử nước được 21 năm, mà chỉ thua một trận rồi bị bức tử trong ngày 30/4/1975, phát súng bắn ra không phải tại Moscow, hay tại Bắc Kinh, mà tại Washington DC.
Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa bị bức tử phải buông súng ngày 30/4/1975 vì Mỹ phản bội khiến ta cạn vũ khí đạn dược, trong khi cộng sản Bắc Việt được Nga Tàu viện trợ tối đa mọi mặt để nhuộm đỏ miền Nam. Mùa Hè Đỏ Lữa 1972 khi Việt cộng đã có AK47, xe tank T54, hỏa tiển tầm nhiệt AT3, đại bác 130 ly, thì chúng ta mới được trang bị M16, Xe tank M48, hỏa tiển TOW, đại bác 175 ly... Năm 1974, Mỹ đã dàn xếp với Trung cộng để bỏ Việt Nam Cộng Hòa bằng cách để cho Trung cộng chiếm Hoàng Sa và để ly gián khối cộng sản quốc tế khiến Liên sô và Trung cộng nghi kỵ và chia rẻ lẫn nhau, và sau cùng khối cộng sản Đông Âu bị tan rả năm 1989. Chính Ngoại trưởng James Baker sau ngày Mỹ rút quân về nước đã phát ngôn "Tự hậu chúng ta (người Mỹ) không nên tham dự vào bất cứ cuộc chiến nào mà chúng ta không có ý định thắng".
Thực chất hậu quả của cuộc chiến tranh này đã biến Việt Nam thành một nước cộng sản dã man trên cả các nước cộng sản khác trên thế giới, ngay cả phát xít Đức cũng không bằng. Phát xít Đức chỉ giết người Do Thái trong các lò thiêu xác chứ không giết dân của mình, còn cộng sản Việt Nam thì tuân lệnh Trung cộng để cải cách ruộng đất, trong hai năm 1953 và 1954 chúng đã đấu tố hàng chục ngàn người, chúng đã đem cả ông bà cha mẹ và người ơn của mình ra đấu tố, rồi thản nhiên nhìn họ bị giết bằng cách chôn nửa người để lưỡi cày kéo đỗ ruột gan ra ngoài. Trên thế giới có ai giết dân của mình hằng loạt bằng cách chôn sống hoặc đập vào đầu cho đến chết để tiết kiệm đạn như quân cộng sản Bắc Việt giết trên 5,000 người dân Huế vô tội trong Tết Mậu Thân 1968 không?
Niềm Đau Còn Đó, sau ngày cả nước bị nhộm đỏ
Hảy nhìn thực trạng Việt Nam sau ngày Quốc Hận 30 tháng 4 năm 1975 đến nay thì thấy rõ chính sách độc tài đảng trị. Tất cả guồng máy chính quyền đều do đảng cai trị, từ cấp Trưởng Phòng trở lên tại Huyện, Tỉnh, và Trung ương đều do đảng viên lãnh đạo, ăn hối lộ và chia chác không đều từ đó mới lòi ra tham nhũng, người dân có học, có tài mà không phải là đảng viên hay con cháu cán bộ thì không được trọng dụng và khó tìm được việc làm. Về việc giáo dục, ngay cả sinh viên ngành Y cũng phải học chính trị tức là môn học tung hô đảng thì Hệ số 2, còn tất cả các môn chuyên môn khác thì chỉ là Hệ số 1. Đây là chủ trương hồng hơn chuyên, sinh viên tốt nghiệp nhờ tung hô đảng và thực chất khả năng chuyên môn không nhiều khiến Việt Nam không hề có một phát minh khoa học nào được quốc tế công nhận, còn bệnh nhân vào bệnh viên thì chỉ biết phó thác cho bề trên. Ai chống đối chính sách ngu dân của đảng đều bị đàn áp tù đày, còn chống Trung cộng xâm lược đất đai biển đảo của ta thì càng bị đàn áp và tù đày nhiều năm hơn nữa.
Sau ngày mất nước, cộng sản đã giam giử gần cả triệu sĩ quan và viên chức chính quyền VNCH trong các trại cải tạo để hành hạ, bỏ đói, bệnh tật không thuốc men cho chết dần chết mòn, hàng chục ngàn người đã bỏ mạng trong các nhà tù trá hình trại cải tạo này. Còn nghĩa trang quân đội Biên Hòa thì bị Quân khu 7 giam giử cả người chết không cho thân nhân đến nhang khói thờ phụng hàng chục năm trời. Cộng sản đã trả thù dân chúng miền Nam một cách lộ liễu vì đã không chịu theo chúng, nhất là trong Tết Mậu Thân 1968, nên chúng đã chủ trương cào bằng miền Nam xuống bằng miền Bắc, hai lần đổi tiền, ngăn sông cấm chợ, học tài thi lý lịch, từ xe đò xài xăng đổi ra xài than, nông dân từ sản xuất tự do phải vào tổ hợp, từ ăn gạo trắng đổi sang ăn độn củ mì với bo bo, đi đâu cũng phải làm đơn xin phép, tiếng than ai oán ngất trời, người không chịu nổi thì vượt biển vượt biên, người ở lại thì một cổ đeo hai tròng, một tròng của đảng và một tròng của công an cảnh sát.
Cuộc chiến Việt Nam kết thúc cho đến nay, ai nấy cũng nhìn rõ Việt Nam chỉ là con cờ trong tay đế quốc và cộng sản, không có ai chiến thắng trong cuộc chiến tranh Quốc-Cộng này cả, chỉ có dân tộc Việt Nam là thua và bị sống dưới chế độ độc tài đảng trị, cho đến ngày nay dân chúng vẫn còn vượt biển vượt biên tìm đất sống, mấy chục người đã chết trong xe tải gọi là “thùng nhân” tại Anh và mới đây hàng chục người đã chìm tàu chết trên biển Đài Loan, đồng bào trong nước đã sáng mắt ra và đã nhìn rõ thế nào là thiên đường cộng sản, và hàng năm đến Ngày Quốc Hận 30 tháng 4, toàn thể cộng đồng người Việt quốc gia tại hải ngoại đều ngậm ngùi thương nhớ về quê cha đất tổ và nguyện cầu cho quê hương đươc thái bình, dân chúng sớm được tự do dân chủ thoát khỏi ách độc tài cộng sản.
Khác với ngôn từ "nhiệt liệt chào mừng", "tinh thần chiến thắng bất diệt" cuồn cuộn trên thông tin dòng chính, nhiều bạn trẻ Việt Nam đã chia sẻ những góc nhìn đầy ưu tư về ngày 30/4.
Trong bối cảnh "chống dịch như chống giặc", không khí kỷ niệm ngày 30/4 tại Việt Nam có vẻ trầm hơn so trong cột mốc 45 năm.
Dù thế, các phương tiện thông tin chính thống, đặc biệt là các báo, đài trực thuộc cơ quan đảng và nhà nước, vẫn tràn ngập "tinh thần chiến thắng", "khí thế hào hùng", "đánh tan Mỹ, ngụy".
Chỉ khi bước lên những nền tảng ít nhiều còn nằm ngoài sự kiểm duyệt của nhà nước, như mạng xã hội Facebook, người ta mới thấy một không khí đa chiều hơn. Nhiều người treo cờ đỏ chào mừng chiến thắng. Không ít người tưởng niệm 'ngày mất nước'.
Vậy những người Việt trẻ tuổi chào đời rất lâu sau ngày chiến tranh kết thúc nghĩ gì về cuộc chiến Việt Nam, về hận thù và hòa giải?
BBC News Tiếng Việt đã có dịp phỏng vấn ba người trẻ có xuất thân khác nhau, đang hoạt động trên nhiều lĩnh vực để ghi lại những ý kiến có lẽ không bao giờ xuất hiện trên báo đài trong nước.
Không phải "ngày thống nhất"
Nhà văn Lê Hữu Nam, 34 tuổi, cây viết trẻ nhiều sách được công chúng đón nhận như Con đến như một phép màu, Mật ngữ rừng xanh, Xứ mộng hồn hoa,.. chia sẻ với BBC News Tiếng Việt từ Sài Gòn hôm 29/4:
"Thuộc thế hệ sinh ra sau cuộc chiến và được giáo dục bởi những người thắng cuộc, tôi được dạy ngày 30/4 lúc bấy giờ là 'ngày giải phóng', 'ngày thống nhất đất nước'. Tuy nhiên, khi đọc nhiều hơn, gặp gỡ và tiếp thu hơn, tôi nhận ra rằng người miền Nam trước 30/4/1975 đã có một chính quyền chính danh, họ hưởng một nền độc lập với một nền cộng hòa hợp pháp, như người dân miền Bắc với nhà nước Xã hội chủ nghĩa. Đối với tôi bây giờ, gọi 30/4 là ngày 'thống nhất đất nước' thì chưa chính xác."
Theo nhà văn, "là một người luôn quan tâm đến những gì đã và đang xảy ra trên đất nước mình, ngày 30/4 với tôi là một ngày buồn."
NGUỒN HÌNH ẢNH,LÊ HỮU NAM
Chụp lại hình ảnh,
Nhà văn Lê Hữu Nam, cây viết trẻ nhiều sách được công chúng đón nhận như Con đến như một phép màu, Mật ngữ rừng xanh, Xứ mộng hồn hoa...
Nguyễn Vi Yên, 25 tuổi, nhà hoạt động xã hội và hiện là chủ nhiệm nhóm Tinh thần Khai Minh, hiện đang sống ở Philippines, chia sẻ rằng dù sinh sau chiến tranh nhưng "trong cả nhà nội lẫn nhà ngoại đều có những người đã hy sinh cho nền độc lập của Việt Nam Cộng hòa".
Vi Yên cho biết:
"Trong những buổi chuyện trò nhắc nhớ thời xưa cũ, ba má tôi thường kể về biến cố 30/4/1975 như một vết thương khó lành gây ra bởi sự khắc nghiệt của chiến tranh, vốn được tô vẽ bởi ngôn từ và lý tưởng. Song họ không gởi gắm vào chúng tôi bất cứ tình cảm yêu ghét hận thù nào. Có chăng, câu chuyện cũng chỉ mang hơi hướm luyến tiếc một cái gì đó đẹp đẽ đã vĩnh viễn mất đi."
Lớn lên trong một gia đình như vậy, Vi Yên xem "biến cố 30/4 được khắc họa như một sự kiện lịch sử của dân tộc giữa vô vàn sự kiện khác."
Nhà văn Lê Hữu Nam chia sẻ dấu mốc dẫn tới những đổi thay nội tâm của anh:
"Vào ngày 30/4 năm mười bảy tuổi, tôi đến nhà một cậu bạn chơi, thì thấy ba cậu ta đang ngồi uống rượu và khóc một mình. Tôi mới hỏi tại sao, thì cậu ta giải thích do ba cậu ngày xưa là 'ngụy' nên ông xem đây là ngày 'mất nước'. Từ đó hình ảnh một người đàn ông gầy gò, hiền lành nhưng đến ngày 30/4 chỉ uống rượu và khóc đeo bám tôi, gợi cho tôi những câu hỏi. Liệu đây có thực sự là 'ngày chiến thắng' không, nếu là 'chiến thắng' thì tại sao một dân tộc lại có người cười, kẻ khóc? Từ đó tôi luôn cố gắng tìm hiểu nhiều hơn từ hai phía, và không còn xem 30/4 là ngày vui của dân tộc nữa."
NGUỒN HÌNH ẢNH,GETTY IMAGES
Chụp lại hình ảnh,
Người dân tìm cách chạy khỏi Sài Gòn ngày 29/4/1975
Tương tự, Vi Yên, trong vai trò hỗ trợ người tị nạn, có dịp nhìn sâu vào bi kịch của chiến tranh qua những phận người mà cô gặp thời hậu chiến.
"Cái nhìn của tôi về ngày 30/4 dần trở nên thực tế hơn và cũng chứa nhiều cảm xúc hơn, sau khi tôi có cơ hội gặp gỡ với cộng đồng người Việt hải ngoại, những người đã vượt biên rời Việt Nam sau khi Sài Gòn sụp đổ," cô chia sẻ.
Cô kể:
"Tôi không sao quên được những ngày ghé nhà chú Phong, một người Việt ở Bỉ, nghe chú say sưa kể chuyện 'chôn dầu vượt biển' rồi cho coi hình con tàu của chú lênh đênh nơi biển lạnh mênh mông. Khi quây quần một tối nọ với anh Cảnh và cả đại gia đình anh ở Copenhagen, tôi được nghe bao chuyện thăng trầm trong các trại tị nạn. Rồi có lần, một người anh lái xe đưa tôi đi từ thành phố Monchengladback tới vùng Frankfurt nước Đức, lúc anh mở mấy băng nhạc cũ của miền Nam, tôi không khỏi xúc động khi thấy anh rơm rớm nhắc rằng đã hơn bốn mươi năm chưa một lần thấy lại quê nhà."
NGUỒN HÌNH ẢNH,GETTY IMAGES
Chụp lại hình ảnh,
Người đi Mỹ theo chương trình định cư năm 1983
Vi Yên cũng cho rằng hiểu về bối cảnh lịch sử và các biến cố là một cách đúng đắn để xác định thái độ đối với thời cuộc. Tuy nhiên, "tôi nhận thấy rằng, chính những tiếp xúc với con người đã giúp tôi có được cái nhìn đầy đủ hơn và giàu tính người hơn về lịch sử."
Từ Hà Nội, một nhà báo trẻ giấu tên, 30 tuổi, chia sẻ với BBC Tiếng Việt hôm 29/4:
"Suy nghĩ của tôi về 30/4 thay đổi nhiều nhất từ 2-3 năm nay khi tôi tác nghiệp những đề tài liên quan tới chiến tranh. Tôi bắt đầu tự hỏi có nên ăn mừng vào ngày này không, sách về lịch sử dường như chỉ một bên viết, thiếu đi sự khách quan. Tôi luôn có sự lấn cấn, người lính dù ở bên nào thì bố mẹ họ sinh ra không bao giờ mường tượng đứa con mình sẽ hy sinh trong một trận chiến. Tôi luôn cảm thấy cần có sự tưởng niệm hơn là ăn mừng phe ta toàn thắng."
Hòa giải cần thực tâm và văn minh
Đã 45 năm trôi qua kể từ khi chiến tranh chấm dứt, nhưng xung đột, tranh cãi vẫn chưa bao giờ lắng dịu. Nhà nước Việt Nam luôn nhấn mạnh hòa hợp, hòa giải, nhưng chắc chắn đây vẫn sẽ là chủ đề bàn luận của rất nhiều năm nữa.
"Những nhân vật trong chính quyền Việt Nam đã nhắc về hòa hợp, hòa giải dân tộc sau chiến tranh, có thể kể đến ông Võ Văn Kiệt, ông Nguyễn Minh Triết. Tôi không hoài nghi thực tâm của họ. Song tôi cảm thấy kỳ khôi khi một mặt chính quyền Việt Nam kêu gọi hòa hợp, hòa giải, mặt khác, trong những ngày này, họ giương cờ hoa khắp phố, mở loa đài hát mừng 'giải phóng miền Nam', 'mùa xuân đại thắng'," Vi Yên đặt vấn đề.
NGUỒN HÌNH ẢNH,GETTY IMAGES
Chụp lại hình ảnh,
Sài Gòn ngày 1/5/1975
"Làm sao những rạn nứt có thể được chữa lành, để các bên có thể ngồi lại 'hòa hợp, hòa giải', nếu chỉ có một bên đơn phương đặt ra phương cách theo lối kẻ thắng áp đặt như trước nay chính quyền Việt Nam vẫn quen làm?".
Theo cô, nếu chính quyền Việt Nam thực sự mong muốn hòa hợp, hòa giải, họ cần phải có một cách tiếp cận thực tâm hơn và văn minh hơn.
Nhà văn Lê Hữu Nam cho rằng người trẻ muốn hướng đến tương lai hơn là kẹt giữa những xung đột quá khứ.
"Cộng sản hay quốc gia không có quá nhiều ý nghĩa với tương lai của chúng tôi. Đến lúc này đối với tôi cả hai bên đều là người Việt Nam, chúng ta không thể cứ mãi thù ghét nhau nếu còn nghĩ đến tương lai con em mình." Nhà văn tin "sự chia rẽ nào cũng phải đến lúc được hàn gắn. Điều này bây giờ nghe có vẻ khó, nhưng tôi tin sẽ có sự thay đổi tích cực."
Còn nhà báo trẻ từ Thủ đô cho rằng:
"Mang tổn thương, căm hận suốt đời thì nên cần có sự hoà giải cho cá nhân của mỗi người chứ không phải những khái niệm đao to búa lớn như tinh thần dân tộc. Tôi nghĩ nên bắt đầu việc hòa giải bằng cách cho những người chịu tổn thương cả hai phía được lên tiếng, chứ không phải những cán bộ hô hào."
Nền độc lập khiếm khuyết
Về nền độc lập quốc gia và quyền tự do của mỗi công dân, sau 45 năm, Việt Nam có được những gì?
Nhà văn Lê Hữu Nam đánh giá: "Hiện tại chỉ có độc lập về mặt địa lý. Còn xét về con người thì 45 năm qua tính độc lập còn rất mơ hồ. Bởi vì người Việt sau bao thế hệ đã hi sinh xương máu, vẫn phải sống trong một xã hội bị gò ép bởi các chính sách bảo thủ và nghèo nàn."
Anh cũng chỉ rõ các vấn đề của đất nước:
"Nạn tham nhũng tràn lan, người lạm dụng chức quyền uy hiếp, chiếm đoạt đất đai của cải của người dân. Không có bầu cử tự do, không có nền báo chí và xuất bản tự do, và khi tiếng nói của người dân không được đáp lại thỏa đáng, thì hai từ 'độc lập' chỉ mang tính tượng trưng mà thôi. Nhưng tôi tin vào tương lai, một tương lai mà ở đó chính quyền với người dân tìm ra tiếng nói chung. Tương lai mà tất cả người Việt Nam cùng chung tay xây dựng đất nước phồn vinh, công bằng và dân chủ."
Với góc nhìn của một nhà hoạt động xã hội, Vi Yên chỉ rõ chính sách không khoan dung của chính quyền:
"Sau 45 năm kể từ ngày mà nhạc sĩ Văn Cao gọi là 'mùa xuân mơ ước ấy đang đến đầu tiên', hàng trăm nhà hoạt động Việt Nam vẫn đang chịu cảnh ngục tù chỉ vì chống lại bất công trong xã hội. Đây không phải là chuyện xa lạ."
NGUỒN HÌNH ẢNH,VI YÊN
Chụp lại hình ảnh,
Nguyễn Vi Yên, nhà hoạt động xã hội, chủ nhiệm nhóm Tinh thần Khai Minh
"Hàng chục năm nay, đã có rất nhiều nhà trí thức chỉ ra điểm yếu kém của thể chế chính trị độc tài tại Việt Nam. Cùng lúc đó, rất nhiều người ở khắp các miền quê trở thành nạn nhân của bất công và đàn áp. Tôi nghĩ, trong thực trạng chính trị khắc nghiệt này, con đường đi đến một nước Việt Nam dân chủ, tự do, và phồn thịnh sẽ còn dài và còn nhiều trắc trở mà chính người dân phải nỗ lực vượt qua," cô nhận xét.
Với nhà báo trẻ giấu tên, cô cho rằng chiến tranh đã là chuyện của quá khứ:
"Tôi nghĩ nền độc lập, tự do mà thế hệ tôi được hưởng không nên chỉ vin vào những hy sinh, đổ máu của cuộc chiến mà vào sự minh bạch của nhà nước bây giờ. Cụ thể, với đồng thuế mà tôi đóng hàng tháng từ đồng lương của mình, nhà nước phải làm sao để xứng đáng với nó", cô nhấn mạnh.
Sự kiện 30 tháng 4 diễn ra sau khi tất cả công dân và lính Mỹ cùng hàng ngàn người Việt ở miền Nam Việt Nam di tản khỏi Sài Gòn. Chiến dịch Gió lốc trở thành hoạt động di tản bằng trực thăng lớn nhất trong lịch sử.[8] Vì nhiều người đã di tản và chính phủ Việt Nam Xã hội chủ nghĩa áp dụng quy định mới về hộ khẩu đã góp phần làm cho dân số thành phố giảm xuống sau đó,[9] tuy nhiên tỷ lệ giảm không nhiều (tốc độ giảm trung bình là 10.000 người mỗi năm trong khi dân số Sài Gòn là gần 4 triệu người); nhưng đến năm 1979, dân số thành phố lại bắt đầu tăng trở lại.[10]
Tên gọi
Có rất nhiều tên gọi khác nhau để chỉ về sự kiện này do lập trường chính trị khác nhau giữa các bên. Chính phủ Việt Nam chính thức gọi đây là "Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước" hay "Ngày giải phóng", "Ngày thống nhất",[11] Sách báo của phương Tây thì thường gọi đây là sự kiện "Sài Gòn thất thủ" (Fall of Saigon),[12] hay "Giải phóng Sài Gòn" (Liberation of Saigon).[13][14] Cộng đồng Việt kiều chống cộng lưu vong ở nước ngoài lại gọi đây là "Tháng tư đen",[15][16][17] hay "Ngày Quốc hận", "Ngày Quốc nhục", "Ngày mất nước" và các tên gọi khác tương tự.[5][6][10] Có sách của Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan) thì gọi đây là ngày "Sài Gòn sụp đổ" hay "Sài Gòn thất thủ".[18]
Bối cảnh
Sau Hiệp định Paris năm 1973, tinh thần và khả năng chiến đấu của quân đội Việt Nam Cộng hòa bị suy giảm nghiêm trọng, nhất là sau khi Richard Nixon từ chức vì vụ Watergate vào tháng 8 năm 1974. Sự suy sụp này còn do các mục tiêu tác chiến không thể hoàn thành như đã định cũng như những thất bại liên tiếp trên chiến trường.
Mới vài ngày trước đây là một tỷ, bây giờ còn 700 triệu, tôi làm gì được với số tiền này? Như là chuyện cho tôi 12 đô la và bắt tôi mua vé máy bay hạng nhất từ Sài Gòn đi Tokyo.
Giáo sư Nutter cũng rất bối rối và giải thích hành động của Quốc hội:
Quốc hội Hoa Kỳ đôi khi hành động vô trách nhiệm như vậy… Cái Trung tâm Tài nguyên Đông Dương (Indochina Resource Center, một trung tâm của những người phản chiến) đang hết sức tìm cách tiêu diệt quý quốc.
Nền kinh tế và chi tiêu của Việt Nam Cộng hòa duy trì được chủ yếu nhờ viện trợ Mỹ. Nền công nghiệp miền Nam nhỏ bé, nông nghiệp bị chiến tranh tàn phá. Lạm phát phi mã xảy ra cùng với tệ tham nhũng, lợi dụng chức quyền càng làm cho nền kinh tế thêm tồi tệ. Ông Bùi Diễm, Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Hoa Kỳ, nhận định tình hình kinh tế và quân sự của miền Nam Việt Nam rất xấu đã khiến người dân không hài lòng với chính quyền Nguyễn Văn Thiệu, tiền lương quân nhân không đủ sống do đó tình hình chính trị cũng xấu theo. Nạn đào ngũ là một vấn đề nghiêm trọng đối với Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Riêng từ tháng 4 tới tháng 12/1974 đã có 176.000 lính đào ngũ. Tại các lực lượng tinh nhuệ của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, Biệt động quân có tỷ lệ đào ngũ lớn nhất (55%), tiếp theo là các đơn vị Dù (30%) và Thủy quân Lục chiến (15%). Trong khi đó, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đã duy trì một lợi thế tâm lý mạnh mẽ, với những người lính tràn đầy tinh thần sẵn sàng hy sinh mục đích cá nhân để cống hiến cho nỗ lực chiến tranh của tập thể, đó là ưu thế quyết định của họ.[19] Bên cạnh đó, họ đã cố gắng duy trì nỗ lực chiến tranh giải phóng đất nước suốt 30 năm và không có lý do gì để từ bỏ nó khi mà quân đội của mình ngày càng hùng mạnh và chiếm được thế thượng phong. Mọi người lính và chỉ huy quân Giải phóng đều cho rằng ngày chiến thắng đã cận kề, chỉ còn cách họ một trận đánh cuối cùng.
Sự suy yếu của Quân lực Việt Nam Cộng hòa
Sau này, trong tập hồi ký Mùa Xuân Đại Thắng, Đại tướng Văn Tiến Dũng của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đã viết: Một trong những động cơ thúc đẩy Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam mở cuộc tổng tấn công ở miền Nam là do Mỹ đã giảm viện trợ, khiến cho lực lượng quân lực Việt Nam Cộng hòa (vốn được tổ chức rập khuôn theo lối đánh tốn kém của Mỹ) đã không thể có đủ tài chính để duy trì số lượng lớn vũ khí. Đó là vì "hỏa lực không quân đã sút giảm gần 60% vì thiếu bom, đạn; khả năng di động cũng giảm đi 50% vì thiếu máy bay, xe cộ và nhiên liệu".[20] Trong khi quân đội Sài Gòn cần 3 tỉ đô mỗi năm để duy trì bộ máy chiến tranh thì đối thủ của họ chỉ cần 10% con số đó để xây dựng một lực lượng quân sự đủ lớn để vừa giữ vững miền Bắc vừa tăng cường quân đội chiến đấu ở miền Nam. Sự suy yếu của Quân lực Việt Nam Cộng hòa còn do yếu tố tâm lý khi tinh thần của binh lính xuống rất thấp, số lượng đào ngũ tăng mạnh. Ngay cả tại những đơn vị tinh nhuệ của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, tỷ lệ đào ngũ cũng tăng lên mức rất cao. Biệt động quân có tỷ lệ đào ngũ lớn nhất (55% mỗi năm), tiếp theo là các đơn vị Dù (30%) và Thủy quân Lục chiến (15%).[21]
Tuy nhiên, quân số và vũ khí của Quân lực Việt Nam Cộng hòa vẫn có những sự vượt trội nhất định khi có 1.351.000 quân, 383 xe tăng (162 M48A3, 221 M41) và 1.691 thiết giáp chở quân M-113, không quân vượt trội hoàn toàn với 550 phi cơ A-1H, A-37 và F-5, 23 phi đoàn trực thăng, trang bị khoảng 1.000 phi cơ UH-1 và CH-47, khoảng 200 phi cơ O1, O2 và U17, khoảng 150 phi cơ C7, C-47, C-119 và C-130), 1 không đoàn tân trang chế tạo, 4 phi đoàn hỏa long, trang bị phi cơ AC-119, AC-130 Spectre Gunship. Ngoài ra còn có phi đoàn trắc giác (tình báo kỹ thuật), phi đoàn quan sát RC-119L và biệt đoàn đặc vụ 314, trong khi đó Quân Giải phóng không thể triển khai lực lượng không quân ở miền Nam và lực lượng tăng thiết giáp cũng tương đối hạn chế.[22] Ngay cả lực lượng bộ binh của quân Giải phóng cũng không thể đạt tới con số 1 triệu quân, kể cả ở thời điểm cao nhất.
Theo hồi ký của Đại tướng Văn Tiến Dũng thì cục diện chiến trường đang chuyển biến ngày càng bất lợi cho quân lực Việt Nam Cộng hòa. Tại Khu 9, các cuộc hành quân lấn chiếm bị thất bại, hơn 2.000 đồn bốt bị phá, 400 ấp chiến lược với gần 800.000 dân bị quân Giải phóng xóa bỏ. Khu 8 có hơn 200 ấp chiến lược với hơn 130.000 dân bị xóa bỏ. Tại Khu 5, quân Giải phóng đã chuyển lên thế tiến công ngày càng mạnh, mở rộng bàn đạp vùng giáp ranh (Nông Sơn, Thượng Đức, Tuy Phước, Minh Long, Giá Vụt), xoá hẳn gần 800 đồn bốt, giải phóng 250 ấp với 200.000 dân.[23]
Trong hồi ký của mình, Đại tướng Văn Tiến Dũng cho rằng tinh thần và sức chiến đấu của quân lực Việt Nam Cộng hòa giảm sút rõ rệt. Do Hoa Kỳ cắt giảm viện trợ, nhiều binh sĩ mất chỗ dựa tinh thần từ lâu nay (được cường quốc số 1 hỗ trợ), nền kinh tế thì ngày càng khó khăn do kinh tế khủng hoảng và nạn lạm phát 300% trong năm 1974. Có 170.000 lính đào ngũ, rã ngũ trong năm 1974, dù tăng cường thêm lính quân dịch thì tổng số quân vẫn giảm 20.000 so với năm 1973. Cuối 1974, quân Giải phóng chủ lực của miền Đông Nam Bộ phối hợp với lực lượng của địa phương mở chiến dịch Đường 14 - Phước Long giành thắng lợi lớn. Trong hơn 20 ngày quân Giải phóng đã diệt và bắt trên 5.400 lính, thu 3.000 súng các loại, giải phóng thị xã Phước Long và toàn tỉnh Phước Long. Chiến bại này đánh dấu một bước suy sụp mới của quân Sài Gòn. Quân chủ lực của Việt Nam Cộng hòa đã không còn đủ sức hành quân giải tỏa quy mô lớn để lấy lại các vùng, các căn cứ và thị xã quan trọng trên các địa bàn giáp ranh, dù Phước Long chỉ cách Sài Gòn 50 km.[23]
Ngay sau thất bại Phước Long, cố vấn Mỹ John Pilger đã tiên liệu trước về sự sụp đổ của chế độ Sài Gòn sẽ diễn ra trong nay mai. Ông viết:
Sài Gòn đang sụp đổ trước mắt, một Sài Gòn được người Mỹ hậu thuẫn, một thành phố được coi là "thủ đô tiêu dùng" nhưng chẳng hề sản xuất được một mặt hàng nào ngoài chiến tranh. Trong hàng ngũ của quân đội lớn thứ tư thế giới vào thời điểm đó, binh lính đang đào ngũ với tốc độ cả nghìn người trong một ngày...[24]
Cuộc tấn công hiện nay của Bắc Việt Nam chống lại quý quốc thật vô cùng xáo trộn khiến riêng cá nhân tôi lo âu. Theo quan điểm của tôi, thì cuộc tấn công của Hà Nội tượng trưng cho một sự việc không kém gì sự hủy bỏ Hiệp định Paris bằng vũ lực.
Biến chuyển này mang theo hậu quả nghiêm trọng nhất cho cả hai dân tộc chúng ta. Đối với Ngài và nhân dân Ngài thì đây là lúc hy sinh lớn nhất, nó sẽ quyết định chính số phận quý quốc. Tôi tin tưởng rằng dưới quyền lãnh đạo của Ngài, quân lực và nhân dân Việt Nam Cộng Hòa sẽ tiếp tục công cuộc bảo vệ kiên trì chống lại vụ xâm lược mới này. Tôi cũng tin tưởng chắc chắn rằng nếu có được sự yểm trợ bổ túc từ bên ngoài vào thì quý quốc sẽ thắng thế trong cuộc đấu tranh giành quyền tự quyết của mình.
Riêng đối với Hoa Kỳ thì vấn đề cũng không kém phần cấp bách.
Khi hành động như thế này, Hà Nội đang tìm cách hủy diệt tất cả những gì mà chúng ta đã chiến đấu để thành đạt, với phí tổn vô cùng to lớn, suốt mười năm qua.
Sự quyết tâm của Hoa Kỳ để yểm trợ một người bạn đang bị các lực lượng (Bắc Việt) với vũ khí hùng mạnh tấn công, hoàn toàn vi phạm một thỏa ước quốc tế (đã được ký kết) long trọng, là một điều hết sức cần thiết.
Riêng tôi, tôi quyết tâm rằng Hoa Kỳ sẽ đứng vững sau lưng Việt Nam Cộng hòa trong giờ phút tối quan trọng này. Với mục đích tôn trọng những bổn phận của Hoa Kỳ trong tình thế này, tôi đang theo dõi những biến chuyển với chủ tâm cao độ nhất và đang khẩn cấp tham khảo ý kiến các cố vấn của tôi về những hành động mà tình thế có thể đòi hỏi và pháp luật cho phép. Về việc cung ứng viện trợ quân sự đầy đủ cho quân đội Ngài, xin Ngài yên tâm là tôi sẽ cố tâm nỗ lực để thoả mãn những nhu cầu vật chất của Ngài trên chiến trường.
Trước khi chấm dứt, tôi xin được nhắc lại một lần nữa lòng cảm phục liên tục của tôi đối với quyết tâm của Ngài và đối với sức bền bỉ và sự anh dũng của nhân dân Việt Nam Cộng Hòa.
Dù là nói tới quyết tâm ủng hộ nhưng người thảo bức thư đã khôn khéo gài vào: "(tôi) đang khẩn cấp tham khảo ý kiến các cố vấn về những hành động mà tình thế có thể đòi hỏi và pháp luật cho phép".[27]
Sau khi tướng Weyand về Mỹ, Bộ trưởng Quốc phòng Schlesinger tuyên bố một giả thuyết giật gân, rằng "nếu cộng sản nắm chính quyền thì có thể 200.000 người Việt Nam sẽ bị tàn sát”. Sáng hôm sau, tờ báo Pacific Starsand Stripes (tờ báo của quân đội Mỹ), xuất bản ở Sài Gòn, đăng lại lời tuyên bố ấy bằng chữ đậm. Nhiều người dân ở miền Nam Việt Nam tin lời Schlesinger và hoảng sợ, bỏ nhà cửa để tìm cách chạy trốn[34] (tuy nhiên, cuối cùng không có một cuộc tàn sát nào xảy ra, quân Giải phóng tiến vào Sài Gòn một cách thuận lợi với sự hỗ trợ của nhiều người dân, nhiều người dân khác thì rất ngạc nhiên vì quân Giải phóng có thái độ mềm mỏng và kỷ luật tốt, họ không hề tiến hành cướp bóc hoặc phá phách như những gì báo chí Mỹ-Việt Nam Cộng hòa tuyên truyền[35]).
Thấy rõ sự thất bại không thể cứu vãn nổi, sau khi xem báo cáo của Weyand, Ngoại trưởng Henry Kissinger đã nguyền rủa: “Sao bọn chúng [Việt Nam Cộng hòa] không chết quách đi. Điều tồi tệ nhất có thể xảy ra là chúng cứ sống vất vưởng hoài”.[33] Phần lớn các nhân vật trong Quốc hội và Chính phủ Mỹ phản đối việc đưa quân Mỹ trở lại Việt Nam. Vấn đề cấp bách hơn lúc này là phải đưa người Mỹ ra khỏi miền Nam Việt Nam.[33]
Ngày 17 tháng 4, Thượng viện Hoa Kỳ từ chối khoản viện trợ khẩn cấp trị giá 722 triệu Mỹ kim mà chính phủ Gerald Ford đề nghị. Tuy không ai tin rằng viện trợ Mỹ có thể xoay chuyển tình thế, một số chuyên viên như Ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger hy vọng rằng ngân khoản đó có thể giúp Việt Nam Cộng hòa lấy lại được đủ vị thế về quân sự để thuyết phục đối phương ngừng tiến quân và đàm phán. Hai ngày sau phán quyết này của Thượng viện, giám đốc CIAWilliam Colby nói với Tổng thống Ford: "Nam Việt Nam đang đối mặt với thất bại hoàn toàn và nhanh chóng". Các chuyến bay di tản do CIA tổ chức đã bắt đầu đưa các cộng tác viên người Việt rời Việt Nam, và Sứ quán Mỹ đã bắt đầu đốt tài liệu mật từ trước đó.[36] Ngày 20 tháng 4 các thủ tục pháp luật được đơn giản hóa cho việc sơ tán người Việt bắt đầu có hiệu lực. Việc sơ tán này được thực hiện tại sân bay quân sự Tân Sơn Nhất, do tướng Homer Smith chỉ huy. Các máy bay C-130 và C-140 liên tục lên xuống vào ban ngày; công việc giấy tờ được tiếp tục suốt đêm. Tướng Smith đã phải dùng đến toàn bộ trung đội Thủy quân Lục chiến số 43 của Mỹ để giữ trật tự tại Tân Sơn Nhất.[cần dẫn nguồn]
Ngày 20 tháng 4, lực lượng phòng thủ Xuân Lộc của Quân lực Việt Nam Cộng hòa bị buộc phải rút lui. Khi Xuân Lộc thất thủ, không còn gì có thể cứu vãn chế độ Sài Gòn nữa. Việc bỏ Xuân Lộc khiến Sài Gòn gần như bỏ ngỏ, không còn phòng thủ từ xa nữa; quân Giải phóng áp sát thành phố ở các tuyến ngoại vi. Cùng ngày 20 tháng 4, Đại sứ Mỹ Martin đến phủ Tổng thống thuyết phục Nguyễn Văn Thiệu từ chức, bởi phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã liên tục tuyên bố sẽ không đàm phán với Nguyễn Văn Thiệu.
Do sức ép lớn từ các tướng dưới quyền như Trần Văn Đôn, Cao Văn Viên, Thủ tướng Nguyễn Bá Cẩn, Bộ trưởng Kinh tế Nguyễn Văn Hảo,[37]Nguyễn Văn Thiệu từ chức vào tối ngày 21 tháng 4 năm 1975. Khi từ chức, Nguyễn Văn Thiệu đã xuất hiện trên truyền hình phát biểu suốt 3 giờ đồng hồ để trách móc việc thoái thác trách nhiệm của chính phủ Mỹ. Ông Thiệu đổ lỗi thất bại là do người Mỹ bằng những lời lẽ nửa tức giận, nửa thách thức:[38]“Mỹ đánh không lại Cộng sản nên bỏ mặc Việt Nam Cộng hòa đánh một mình thì làm sao ăn nổi. Có giỏi thì Mỹ vô đây lần nữa…” Ông Thiệu lên án thẳng Hoa Kỳ là "một đồng minh vô nhân đạo với những hành động vô nhân đạo".[39]
Cũng trong bài diễn văn từ chức, Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố mạnh mẽ rằng ông sẽ không bỏ chạy mà sẽ tiếp tục cầm súng chiến đấu:
"Dù mất một Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, quân đội vẫn còn Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu, đồng bào còn một chiến sĩ Nguyễn Văn Thiệu. Tôi nguyện sẽ chiến đấu kề bên anh em chiến sĩ..."
Tuy nhiên, những tuyên bố đó đã không được Nguyễn Văn Thiệu thực hiện. Sau khi từ chức, ông Thiệu về nhà, đề nghị Mỹ thu xếp một chuyến bay để đưa ông và gia đình ra nước ngoài. Chỉ 4 ngày sau, Nguyễn Văn Thiệu đã bí mật lên máy bay thoát khỏi Sài Gòn vào đêm ngày 25 tháng 4 năm 1975. Cuộc ra đi của Nguyễn Văn Thiệu diễn ra bí mật trong đêm tối, dưới sự sắp đặt của Thomas Polgar - trưởng CIA ở Sài Gòn.[40] Để cho việc ra đi danh chính ngôn thuận, Trần Văn Hương ký quyết định cử Nguyễn Văn Thiệu là đặc sứ của Việt Nam Cộng hòa đến Đài Bắc để phúng điếu Tưởng Giới Thạch (nhưng thực ra Tưởng Giới Thạch đã qua đời từ trước đó 3 tuần).
Phó Tổng thống Trần Văn Hương lên thay nhưng phía Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam không chấp nhận nói chuyện với ông này. Thời điểm 21 tháng 4 khi Nguyễn Văn Thiệu từ chức có ý nghĩa quyết định. Đại tướng Võ Nguyên Giáp nói rằng "chìa khóa là ngày 21 tháng 4, khi Thiệu từ chức. Khi đó tôi biết rằng chúng tôi phải tấn công ngay lập tức, cướp lấy thời cơ, tất cả chúng tôi cũng đồng ý như vậy".[41] Đêm hôm đó, tại Sở Chỉ huy Tiền phương tại Lộc Ninh, cách Sài Gòn 75 dặm, tướng Văn Tiến Dũng, người chỉ huy các cánh quân Giải phóng tiến về thành phố, ra lệnh bắt đầu cuộc tổng tiến công.
Để đảm bảo áp đảo chắc thắng, quân Giải phóng đưa thêm cả Quân đoàn 1 (hay còn gọi là Binh đoàn Quyết thắng) bằng tàu biển và hàng không vào chiến trường cho trận cuối cùng có tên là Chiến dịch Hồ Chí Minh. Lực lượng tiến công Sài Gòn tương đương 20 sư đoàn, tổ chức thành 5 quân đoàn.
Trong nỗ lực cuối cùng, tướng Nguyễn Cao Kỳ phát biểu trước khoảng 6 nghìn người Thiên Chúa giáohữu khuynh vào xế trưa ngày 25 tháng 4 về chuyện phòng thủ Sài Gòn, rằng "ông sẽ ở lại Sài Gòn và chiến đấu cho tới chết, những kẻ chạy theo Mỹ là hèn nhát". Phụ nữ và trẻ con sẽ được gửi đi đảo Phú Quốc, còn người dân Sài Gòn "sẽ ở lại chiến đấu". Thậm chí Nguyễn Cao Kỳ còn tuyên bố rằng: Sài Gòn "sẽ trở thành một Leningrad thứ hai" (Leningrad là nơi quân dân Liên Xô đã cầm cự 900 ngày trong vòng vây hãm của quân Đức). Nguyễn Cao Kỳ hứa hẹn: Việc phân phối vũ khí sẽ được ông ta cho làm ngay, mọi người nên ở lại Sài Gòn để chiến đấu. Nhưng tất cả chỉ là những lời nói suông và chẳng được thực hiện một chút nào. Sau khi phát biểu xong, Nguyễn Cao Kỳ bỏ vào sân bay Tân Sơn Nhất để sắp xếp cho các máy bay di tản sang Thái Lan và đồng thời cũng bí mật ra lệnh cho một trực thăng đến đón mình. Sáng ngày 29 tháng 4 năm 1975, Nguyễn Cao Kỳ đã dùng trực thăng chạy ra ngoại quốc, bỏ lại sau lưng những lời thề hứa chiến đấu quyết tử mà ông từng hùng hồn tuyên bố trước đó bốn ngày.[42]
Ngày 27 tháng 4, sân bay quân sự Tân Sơn Nhất tại Sài Gòn chịu 3 loạt hỏa tiễn của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, lần đầu tiên trong hơn 40 tháng[43] làm nhiều người chết và bị thương, nhà cửa đổ nát. Hai lính Mỹ thiệt mạng do hỏa tiễn, là những lính thiệt mạng cuối cùng của Mỹ trong cuộc chiến.[44]
Tại phía Nam của Sài Gòn, ngay từ ngày 28 tháng 4 năm 1975, Bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô của chính quyền Sài Gòn không còn quân trù bị để phòng thủ. Họ buộc phải rút một liên đoàn Biệt động quân đang hành quân về quận lỵ Cần Đước và đặt dưới quyền điều động của Bộ tư lệnh Biệt khu Thủ đô. Liên tỉnh lộ nối liền Chợ Lớn và Cần Đước cũng bị cắt nhiều đoạn nên các lực lượng Việt Nam Cộng hòa không thể phá vỡ được các chốt chận của quân Giải phóng tại cầu Nhị Thiên Đường vốn đã bị chiếm từ rạng sáng ngày 29 tháng 4 năm 1975.
Các đơn vị nhảy dù phòng ngự tại phòng tuyến khu vực từ ngã tư Quân Vận (gần Trung tâm Huấn luyện Quang Trung) đến cầu Tham Lương Bà Quẹo, khu Bình Thới - Ngã ba Bà Quẹo, khu Bảy Hiền - Lăng Cha Cả đã cố gắng ngăn chặn đối phương. Một chiến đoàn thuộc Liên Đoàn 81 Biệt cách Nhảy dù tại vòng đai Bộ Tổng Tham mưu do Thiếu tá Phạm Châu Tài chỉ huy đã dàn quân và từ 8 giờ sáng đến 10 giờ sáng, chiến đoàn này đã bắn cháy 6 chiến xa và đánh bật đối phương ra khỏi trận địa.
Tuy nhiên các nỗ lực kháng cự lẻ tẻ này không làm chậm quân Giải phóng được bao nhiêu. Đến cuối ngày 28 tháng 4, tất cả các tuyến phòng thủ đã bị chọc thủng ở mọi hướng, quân Giải phóng có thể tiến ngay vào thành phố nhưng họ dừng lại để có thêm thời gian cho giải pháp đàm phán. Các lực lượng chính trị thứ ba dàn xếp để đưa Đại tướngDương Văn Minh lên làm tổng thống trong ngày 28 tháng 4 năm 1975. Ngay khi nhậm chức, để tiến hành đàm phán Tổng thống Dương Văn Minh yêu cầu người Mỹ ra đi.
4 giờ sáng ngày 29/4 tức 16 giờ ngày 28/4 theo giờ Washington, hỏa tiễn và đạn pháo Quân giải phóng đã nã tới tấp xuống phi trường Tân Sơn Nhất, phá hủy nhiều phi cơ trên mặt đất, vô hiệu hóa phi trường này và làm cho số người Việt đang tụ tập ở đấy sợ hãi trốn chạy, một sự hỗn loạn thực sự.[45]
Một người đàn ông Mỹ đấm vào mặt một người khác để giành chỗ trên trực thăng di tản khỏi Nha Trang.
Ở Sài Gòn và phần còn lại của Việt Nam Cộng hòa, hàng triệu người dân Việt Nam bắt đầu tự đặt cho mình 1 câu hỏi mấu chốt: họ có thể ở lại sống dưới chế độ mới hay là tự tìm cách bỏ ra nước ngoài bằng đường biển.
Trong các ngày 28, 29 tháng 4 từ các hàng không mẫu hạm của Hạm đội số 7 ngoài khơi, Thủy quân Lục chiến Mỹ dùng trực thăng di tản người nước ngoài và một số người Việt đã từng cộng tác chặt chẽ với họ, trong đó có chiến dịch Babylift. Cuộc di tản đã diễn ra trong hỗn loạn vì rất nhiều người muốn ra đi nhưng không thể đáp ứng hết được. Các điểm đỗ của trực thăng náo loạn. Lính Thủy quân Lục chiến Mỹ đã phải cố gắng mới duy trì được trật tự. Người Mỹ đã phải bỏ lại nhiều người Việt để ưu tiên người Mỹ vì số lượng phương tiện có hạn. Hình ảnh di tản đã in đậm trong trí óc nhiều người Mỹ và Việt Nam như một kỷ niệm buồn. Đại sứGraham Martin là một trong những người Mỹ cuối cùng ra đi. Trong số 120.000 người Việt và 20.000 người Mỹ được di tản trong đợt này, không có một người nào bị thiệt mạng do hoạt động quân sự của quân Giải phóng.[46]
Trực thăng trên Hàng không mẫu hạmUSS Midway tháng 4-1975 bị đẩy xuống biển để dành thêm chỗ cho máy bay chở người di tản hạ cánh.[47]
Quân Giải phóng dừng lại bên ngoài thành phố một ngày để cho người Mỹ di tản hết mới vào. Theo lời tướng Trần Văn Trà, cánh quân của ông đã đợi vì mục đích chính là để giải phóng Sài Gòn chứ không phải để giết người Mỹ và sỉ nhục họ. Ở một cánh quân khác, theo hồi ký của tướng Hoàng Cầm, cánh quân của Quân đoàn 4 mà ông chỉ huy gặp rất nhiều kháng cự trên đường tiến về Sài Gòn và chỉ đến nơi vừa kịp sáng ngày 30 tháng 4.
Tôi cảm ơn thiện chí của ông, nhưng trong đời tôi, tôi đã từng làm tay sai cho Pháp, rồi tay sai cho Mỹ, đã quá đủ rồi. Tôi không thể tiếp tục làm tay sai cho Trung Quốc.[48]
”
Theo tác giả Trần Viết Đại Hưng, một cựu sĩ quan quân lực Việt Nam Cộng hòa, thì Nguyễn Cao Kỳ còn tính làm một cuộc đảo chính chính phủ Dương Văn Minh mới thành lập để nắm quyền và ra lệnh cố thủ. Người Mỹ biết chuyện đó và giám đốc CIA ở Sài Gòn lúc đó là Polgar đã cảnh cáo Kỳ là không được manh động. Nguyễn Cao Kỳ nghe vậy thì dẹp bỏ kế hoạch vì ông ta hiểu rằng: nếu chống lại sách lược của Mỹ thì sẽ mang họa vào thân.[cần dẫn nguồn]
Ngày 30 tháng 4
Phạm Xuân Thệ (phải) đưa Dương Văn Minh và Vũ Văn Mẫu đến đài phát thanh.Bản phục chế của bản thảo lời đầu hàng và lời chấp nhận đầu hàng do Phạm Xuân Thệ và Bùi Văn Tùng soạn.
Ngày 29 tháng 4, sau cơn giận dữ của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Schlesiger và Cố vấn Henry Kissinger ở Washington vì sự nấn ná của Đại sứ Graham Martin ở Sài Gòn để cố tạo ra vẻ "người Mỹ đàng hoàng ra đi", Tổng thống Mỹ Gerald Ford ra lệnh dứt khoát: "Chấm dứt cuộc di tản vào 3 giờ 30 phút, giờ địa phương, sáng 30 tháng 4". Tuy nhiên, lệnh vẫn không thi hành kịp do sự chần chừ của đại sứ Martin, "cuộc tháo chạy" đã diễn ra cho tới khi chiếc trực thăng Mỹ cuối cùng rời Sài Gòn vào lúc 5 giờ 24 phút ngày 30 tháng 4.
Dương Văn Minh chuẩn bị tuyên bố đầu hàng
8 giờ sáng ngày 30 tháng 4, Tổng thống Dương Văn Minh và Bộ Tổng Tham mưu quân đội Việt Nam Cộng hòa hạ lệnh đơn phương ngừng chiến, sẵn sàng đón quân đối phương tiến vào Sài Gòn:
“
Đường lối, chủ trương của chúng tôi là hòa giải và hòa hợp dân tộc để cứu sinh mạng đồng bào. Tôi tin tưởng sâu xa vào sự hòa giải giữa người Việt Nam để khỏi phí phạm xương máu người Việt Nam. Vì lẽ đó tôi yêu cầu tất cả các anh em chiến sĩ Việt Nam Cộng hòa hãy bình tĩnh, ngưng nổ súng và ở đâu ở đó. Chúng tôi cũng yêu cầu anh em chiến sĩ Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam ngưng nổ súng vì chúng tôi ở đây chờ gặp Chánh phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam để cùng nhau thảo luận về lễ bàn giao chính quyền trong vòng trật tự và tránh sự đổ máu vô ích của đồng bào.[cần dẫn nguồn]
Theo phía Quân Giải phóng, lệnh này trên thực tế cũng không có nhiều tác dụng do phần lớn quân lực Việt Nam Cộng hòa lúc đó đã tan rã, hầu hết binh lính đã ra hàng hoặc vứt bỏ vũ khí về với gia đình. Do đó khi quân Giải phóng tiến vào Sài Gòn hầu hết chỉ gặp những ổ kháng cự nhỏ lẻ, thiếu tổ chức. Việc Trung tá Bùi Văn Tùng yêu cầu Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Dương Văn Minh đầu hàng thay vì phương án thành lập chính phủ liên hiệp ba thành phần là nhằm buộc Quân lực Việt Nam Cộng hòa trên khắp chiến trường buông súng, tránh thương vong không cần thiết cho cả hai bên lẫn dân thường.[49]
Theo Tổng trưởng Thương mại - Kinh tế Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Văn Diệp, trước khi quân Giải phóng tiến vào Sài Gòn, tướng tình báo Pháp là Francois Vanussème (lúc đó mới là Đại tá) đến gặp các ông Dương Văn Minh, Nguyễn Văn Huyền - Chủ tịch Thượng viện Sài Gòn và Vũ Văn Mẫu vào sáng 30/4 để đề nghị Việt Nam Cộng hòa tiến hành hoãn binh, không đầu hàng Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam mà tiếp tục đưa ra yêu sách thành lập chính phủ liên hiệp. Nếu chính phủ liên hiệp được thành lập, Pháp sẽ giúp Việt Nam Cộng hòa nhận được sự bảo trợ của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Tuy nhiên, Tổng thống Dương Văn Minh ngay lập tức từ chối do không muốn thêm một lần làm tay sai cho nước ngoài.[50]
Động cơ của Pháp lúc đó là muốn Sài Gòn ngừng bắn để bảo vệ các tài sản của Pháp tại Sài Gòn tránh khỏi sự tàn phá của việc giao tranh, việc bảo vệ Sài Gòn chính là bảo vệ các lợi ích của Pháp. Pháp muốn thiết lập lại ảnh hưởng của họ trên thuộc địa cũ. Trong Bộ Ngoại giao Pháp và các cố vấn ở Phủ Tổng thống có hai xu hướng giải quyết đối với vấn đề Sài Gòn. Một thì ra sức hoạt động cho một sự thu xếp ngừng bắn, một thì chủ trương nên tính chuyện làm ăn với Chính phủ Cách mạng lâm thời. Thậm chí, khi quân Giải phóng bắt đầu chiến dịch giải phóng Đà Nẵng, Pháp đã cử Đại sứ Pháp tại Hà Nội Philippe Richer tới gặp Thủ tướng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Phạm Văn Đồng để bàn cách lật đổ chính phủ Nguyễn Văn Thiệu để dựng lên một chính quyền có thể nói chuyện được với Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam. Tổng thống Dương Văn Minh đã nhìn ra ý đồ của Pháp và không muốn Trung Quốc can thiệp vào quá trình thống nhất Việt Nam nên đã từ chối, chấp nhận đầu hàng Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam để nhanh chóng có hòa bình và thống nhất.[51]
Tướng Dương Văn Minh lên làm Tổng thống không có ý để thương thuyết với cách mạng vì đã thấy không còn khả năng thương thuyết; cũng không có ý để tiếp tục chiến tranh vì lâu nay ông Minh chủ trương hòa bình, chấm dứt chiến tranh. Điều này thể hiện rõ khi Dương Văn Minh chỉ định hai "cơ sở ngầm" của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam (Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh và Luật sư Triệu Quốc Mạnh) nắm hai lực lượng vũ trang là quân đội và cảnh sát; cử một người dân sự (Giáo sư Bùi Tường Huân) làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng; chưa đầy một ngày sau khi nhậm chức thì ngày 29 tháng 4 năm 1975 ông đã ra lệnh thả tù chính trị, chấm dứt liên lạc với phái đoàn DAO của Mỹ, không di chuyển quân, không phá cầu,...[52]
Quân Giải phóng tiến vào Sài Gòn
8 giờ sáng cùng ngày, đúng 3 tiếng đồng hồ sau khi chiếc trực thăng cuối cùng của Mỹ rời nóc tòa Đại sứ quán, tướng Trần Văn Trà lệnh cho quân Giải phóng tiến vào Sài Gòn từ năm hướng. Họ đã tiến nhanh mà không gặp một sự kháng cự có tổ chức nào.
Đánh chiếm sân bay Tân Sơn Nhất và Bộ tổng tham mưu
Đến tối ngày 29/4, lực lượng thọc sâu của quân đoàn bao gồm Trung đoàn Bộ binh 24 (Sư đoàn 10) và Tiểu đoàn xe tăng 1 (Trung đoàn xe tăng 273) đã tới khu vực Ngã ba Bà Quẹo, sẵn sàng cho trận đánh cuối cùng.
Sáng sớm ngày 30/4, Thê đội 1 của đội hình thọc sâu gồm 7 xe tăng T-54 của Đại đội Xe tăng 1 và 4 xe K63 của Đại đội 11 do quyền đại đội trưởng Nguyễn Hồng Tư chỉ huy cùng với một đại đội BB tiến về phía Ngã tư Bảy Hiền. Bất chấp sự cản phá của không quân và bộ binh địch, lực lượng đi đầu do xe tăng T-54 số 979 của Nguyễn Hồng Tư dẫn đầu vừa đi vừa bắn, chiếm được ngã tư Bảy Hiền. Khi vượt qua ngã tư và rẽ trái để hướng về phía Cổng 5 sân bay thì xe 979 bị 1 xe tăng M48 Patton phục ở hướng bệnh viện Vì Dân bắn trúng. Xe bốc cháy, các thành viên tổ lái hy sinh. Xe tăng số 985 của trung đội trưởng Mai Trọng Hoạt vừa lao lên ngã tư cũng bị bắn hỏng pháo. Trưởng xe Mai Trọng Hoạt ra lệnh cho xe lao thẳng tới, định húc vào chiếc M48 đi đầu. Chiếc M48 vội lùi vào một ngôi nhà ven đường, ngôi nhà đổ sụp trùm lên chiếc xe, kíp lái M48 bỏ xe chạy mất. Chiếc M48 chạy sau quay đầu rồi chạy khỏi khu vực[53]
Thê đội 1 của lực lượng thọc sâu tiếp tục bổ sung lực lượng và tiến về mục tiêu chủ yếu là sân bay Tân Sơn Nhất theo đường Võ Tánh (đường Hoàng Văn Thụ ngày nay). Liên đoàn Biệt cách Dù 81 phòng thủ ở đây có trang bị khá mạnh. 9 giờ 30, xe tăng và bộ binh quân Giải phóng bắt đầu xung phong về hướng sân bay, khi vượt qua Lăng Cha Cả được khoảng 100 mét thì xe tăng số 875 đi đầu trúng đạn bốc cháy, xe T-54 thứ hai vừa vượt qua ngã ba cũng bị bắn cháy. Xe K63 của đại đội trưởng Đại đội 11 bám sát yểm hộ 2 xe tăng cũng bị trúng đạn. Mũi tiến công này của xe tăng và bộ binh bị chặn lại[53]
Trung đoàn trưởng bộ binh và tiểu đoàn trưởng xe tăng điều 2 khẩu pháo 85mm lên bắn trực tiếp, đồng thời điều Đại đội Xe tăng 2 lên thay cho Đại đội xe tăng 1 tiếp tục đột phá. Khẩu pháo đầu tiên của Trung Đoàn Pháo binh 4 do Đại đội trưởng Chính chỉ huy vừa vào tới khu vực bên trái Lăng Cha Cả, đang triển khai thì đã trúng hỏa tiễn. Pháo hỏng, cả khẩu đội cùng Đại đội trưởng Chính hy sinh. Trung đoàn phó Trương Văn Việt quyết định đột phá sang khu vực bên trái Lăng Cha Cả. Bộ binh được chia thành 2 mũi, một mũi cùng xe tăng đánh theo cổng số 5, một mũi đánh vào cổng phía Tây. Xe tăng số 326 vừa vượt qua Lăng Cha Cả lại bị bắn cháy, xe tăng số 815 vượt qua khu vực Lăng được một đoạn cũng bị bắn cháy. Xe tăng số 353 thì bị hư hại, tổ lái không rời xe mà tiếp tục dùng súng 12,7 mm chi viện bộ binh xung phong. Bên cổng phía Tây, sau khi tiêu diệt được một số chốt chặn, 3 xe tăng của Đại đội xe tăng 1 và 4 xe K63 của Đại đội 11 cùng bộ binh xung phong vào sân bay, đánh chiếm Khu truyền tin, Bộ Tư lệnh Sư đoàn 5 Không quân, Bộ Tư lệnh Dù...[53]
Trong khi đó, cánh quân của Tiểu đoàn xe tăng 2 và Trung đoàn Bộ binh 28 sau khi đánh chiếm được quân trường Quang Trung thì nhận lệnh nhanh chóng tiến công trụ sở Bộ Tổng tham mưu địch. Cuộc chiến đấu ở cổng Bộ Tổng tham mưu và cổng sân bay vẫn đang quyết liệt thì có tin Dương Văn Minh ra lệnh đầu hàng, tuy nhiên một số lính biệt cách dù cho đó là lừa bịp và vẫn tiếp tục bắn trả lẻ tẻ. Đến khi các mũi tiến công khác làm chủ được sân bay Tân Sơn Nhất và Bộ Tổng tham mưu, quân dù mới đầu hàng hoàn toàn[53]
Đánh chiếm Dinh Độc Lập
Đại đội 9, Lữ đoàn 273, Quân đoàn 3 gồm 4 xe tăng T-54 nhận nhiệm vụ thần tốc tiến về trung tâm Sài Gòn. Dọc đường, 4 xe tăng gặp nhiều chốt chặn. Sau 30 phút, 4 chiếc xe tăng của Đại đội 9 đã tiêu diệt 12 xe tăng - thiết giáp của địch, 12 chiếc khác ra đầu hàng, phía quân Giải phóng bị bắn cháy 1 xe tăng. Sau khi đánh bại quân địch tại các trạm chốt ở khu vực cầu Sài Gòn, Hàng Xanh, cầu Thị Nghè, 2 xe tăng số hiệu 843 và 390 tiến về Dinh Độc Lập. Xe 843 đi trước do Đại đội trưởng Bùi Quang Thận chỉ huy.
10 giờ 45 phút ngày 30 tháng 4, chiếc xe tăng T-54 mang số hiệu 843 húc nghiêng cổng phụ của Dinh Độc Lập và bị kẹt tại đó. Trung úy Quân Giải phóng miền Nam Việt NamBùi Quang Thận từ xe 843 nhảy xuống, cầm cờ Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam chạy bộ vào. Xe tăng 390 của Vũ Đăng Toàn húc sập cánh cửa chính của dinh. Những phút sau đó, tiếp tục có thêm nhiều xe tăng - xe thiết giáp và bộ đội quân Giải phóng kéo vào trong dinh.
Cùng lúc này, Đại úy Trung đoàn phó Trung đoàn 66 Phạm Xuân Thệ cùng lực lượng đột kích thọc sâu của Quân đoàn 2 và Biệt động thành Sài Gòn tiến vào dinh Độc Lập bắt Tổng thống cuối cùng của Việt Nam Cộng hòa là ông Dương Văn Minh cùng toàn bộ những nhân vật chủ chốt của nội các chính phủ Sài Gòn. Dương Văn Minh nói: "Tôi chờ các ông tới để bàn giao chính quyền", Bùi Văn Tùng trả lời: "Các ông đã không còn gì để bàn giao. Thay mặt Cách mạng, tôi đề nghị ông ra lệnh đầu hàng vô điều kiện để tránh đổ máu không cần thiết". Dương Văn Minh đồng ý.[cần dẫn nguồn]
Khoảng 12 giờ trưa, Đại úy Phạm Xuân Thệ đưa Tổng thống Dương Văn Minh, Thủ tướng Vũ Văn Mẫu lên xe Jeep để đến đài phát thanh. Chiếc xe thứ hai chở Trung tá Chính ủy Lữ đoàn Xe tăng 203 Bùi Văn Tùng cùng hai nhà báo Borries Gallasch (người Đức, báo Der Spiegel) và Hà Huy Đỉnh. Đến đài Phát thanh, tất cả lên phòng ghi âm nhỏ chỉ rộng khoảng 20 m vuông. Trong lúc đứng đợi, một nhân viên của Đài giật chân dung Nguyễn Văn Thiệu trên tường xuống, ném qua cửa sổ xuống sân. Không khí căng thẳng thay đổi khi đại uý Thệ thay đổi thái độ, vui vẻ nói[54]:
Anh Minh, anh yên tâm! Chúng tôi chiến đấu cho dân tộc, vì vậy chúng tôi buộc phải đánh bại những kẻ cam tâm bán nước. Nhưng bây giờ chúng tôi đã vào đây, không ai làm gì anh đâu và cũng không ai sẽ bắt tội anh.
Chính uỷ Tùng muốn tướng Minh đọc qua những lời thảo trước khi ghi âm. Song không tìm thấy một chiếc máy ghi âm nào trong Đài Phát thanh do toà nhà vừa trải qua một trận hôi của. Chỉ còn chiếc máy ghi âm nhỏ của báo Spiegel. Việc thu âm tiến hành đến ba lần. Lần thứ nhất ông Minh không đọc tiếp khi đến dòng chữ "Tôi, Dương Văn Minh, tổng thống chính quyền Sài Gòn...". Ông chỉ muốn giản lược là "Tướng Minh" và không muốn nhắc đến chức vị Tổng thống mới tiếp nhận được hai ngày. Cuối cùng mọi người nhất trí với lời văn: "Tôi, tướng Dương Văn Minh ra lệnh cho tất cả binh sĩ hạ vũ khí đầu hàng..."[54]
Tại đài phát thanh, Tổng thống Dương Văn Minh thay mặt toàn bộ nội các của chính phủ Sài Gòn đã đọc tuyên bố đầu hàng vô điều kiện với quân đội cách mạng (tức quân Giải phóng miền Nam Việt Nam). Thay mặt các đơn vị quân Giải phóng đánh chiếm dinh Độc Lập, Trung tá Bùi Văn Tùng đọc lời tiếp nhận đầu hàng. Thủ tướng Vũ Văn Mầu cũng tuyên bố đầu hàng sau đó.[55] Chiến tranh kết thúc. Tổng thống Dương Văn Minh khi tuyên bố đầu hàng nêu rõ:[55]
“
Tôi, Đại tướng Dương Văn Minh, Tổng thống chính quyền Sài Gòn, kêu gọi Quân lực Việt Nam Cộng Hòa hạ vũ khí đầu hàng không điều kiện quân Giải phóng Miền Nam Việt Nam. Tôi tuyên bố chính quyền Sài Gòn từ trung ương đến địa phương phải giải tán hoàn toàn. Từ trung ương đến địa phương trao lại cho Chính phủ Cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam.
”
Thủ tướng Vũ Văn Mẫu tuyên bố:
“
Trong tinh thần hòa giải và hòa hợp dân tộc, tôi - giáo sư Vũ Văn Mẫu, Thủ tướng, kêu gọi tất cả các tầng lớp đồng bào vui vẻ chào mừng ngày hòa bình của dân tộc, và trở lại sinh hoạt bình thường. Các nhân viên của các cơ quan hành chánh quay trở về vị trí cũ theo sự hướng dẫn của chính quyền Cách mạng
”
Ngay sau đó Trung tá, Chính ủy Bùi Văn Tùng, người biên soạn tuyên bố đầu hàng cho Tổng thống Dương Văn Minh tuyên bố:[55]
“
Chúng tôi đại diện lực lượng quân Giải phóng Miền Nam Việt Nam long trọng tuyên bố Thành phố Sài Gòn đã được giải phóng hoàn toàn, chấp nhận sự đầu hàng không điều kiện của Tướng Dương Văn Minh, Tổng thống chính quyền Sài Gòn
Tom Polgar, nhân viên cao cấp tòa Đại sứ Mỹ ở Việt Nam, một trong những người Mỹ cuối cùng di tản, đã ghi lại cảm tưởng của mình vào ngày hôm ấy:
"Đó là một cuộc chiến tranh [chiến tranh Việt Nam] lâu dài và khó khăn mà chúng ta đã thua. Thất bại độc nhất của lịch sử Hoa Kỳ chắc sẽ không báo trước sức mạnh bá chủ toàn cầu của nước Mỹ đã chấm dứt. Nhưng... Ai không học được gì ở lịch sử, bắt buộc sẽ phải lặp lại sai lầm trong lịch sử".[cần dẫn nguồn]
Trong trưa ngày 30 tháng 4, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã liên lạc với quân Giải phóng và tuyên bố trên Đài Phát thanh Sài Gòn sau lời tuyên bố đầu hàng của Tổng thống Dương Văn Minh:[59]
“
Hôm nay là ngày mơ ước của tất cả chúng ta... Ngày mà chúng ta giải phóng hoàn toàn đất nước Việt Nam này... Những điều mơ ước của các bạn bấy lâu là độc lập, tự do, và thống nhất thì hôm nay chúng ta đã đạt được tất cả kết quả đó... Hôm nay tôi yêu cầu các văn nghệ sĩ cách mạng miền Nam Việt Nam, các bạn trẻ và Chính phủ Cách mạng lâm thời xem những kẻ ra đi là những kẻ phản bội đất nước... Chính phủ Cách mạng lâm thời đến đây với thái độ hòa giải, tốt đẹp. Chúng ta không có lý do gì để sợ hãi mà ra đi cả. Đây là cơ hội duy nhất và đẹp đẽ nhất để đất nước Việt Nam được thống nhất và độc lập. Thống nhất và độc lập là những điều chúng ta mơ ước suốt mấy chục năm nay. Tôi xin tất cả các bạn, thân hữu và cũng như những người chưa quen của tôi xin ở lại và kết hợp chặt chẽ với Ủy ban Cách mạng lâm thời để góp tiếng nói xây dựng miền Nam Việt Nam này..."[60]
”
Chiều ngày 30 tháng 4, ca khúc “Nối vòng tay lớn” của Trịnh Công Sơn được chính ông trình bày trên Đài phát thanh Sài Gòn và là ca khúc đầu tiên được phát trên đài sau khi chế độ Việt Nam Cộng hòa sụp đổ.
Trước đó, chính phủ Sài Gòn đã tuyên truyền về một cuộc tắm máu của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam khi Sài Gòn thất thủ. Do đó, trong sáng ngày 30 tháng 4, rất ít người dám ra đường mà chỉ ở trong nhà nghe phát thanh.[61] Tuy nhiên, theo quan sát của các nhà báo quốc tế, tại Sài Gòn và nhiều thành phố khác của miền Nam Việt Nam đã không hề có bất kỳ một cuộc tắm máu nào xảy ra như những gì bộ máy tuyên truyền của Việt Nam Cộng hòa cảnh báo. Hoàn toàn không có việc bắn giết, cướp bóc, bạo lực. Ngược lại, những binh sĩ đã hạ vũ khí được tự do đi lại trên đường phố mà không bị truy sát. Các hình ảnh do chính phóng viên ảnh và quay phim nước ngoài ghi lại đã cho thấy nhiều người dân đã đón chào và dẫn đường cho quân Giải phóng đánh chiếm các mục tiêu trong trưa 30/4/1975 tại Sài Gòn.[61][62]
Hoạt động nổi dậy của người dân Sài Gòn
Song song với các hoạt động quân sự của quân Giải phóng là hoạt động nổi dậy giành chính quyền của quần chúng nhân dân. Phía Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam đã có những hoạt động chuẩn bị để quần chúng nổi dậy ngay từ tháng 3/1975, trong đó xác định lực lượng thanh niên là nòng cốt. Hoạt động nổi dậy sẽ diễn ra ở 5 khu vực, bao gồm:
Khu vực 1 gồm: Ngã Bảy, Bàn Cờ, Vườn Chuối (quận 3) do lực lượng sinh viên học sinh các trường Kỹ thuật Cao Thắng, Gia Long và cơ sở sĩ quan Việt Nam Cộng hòa do quân Giải phóng đã thực hiện binh vận thành công đã trở thành cơ sở cách mạng.
Khu vực 2 gồm: Khánh Hội - Xóm Chiếu thuộc quận 4 và một phần quận Nhì do lực lượng các trường đại học Y, Nha, Dược và Nông súc sản phụ trách.
Khu vực 3 gồm: Cầu Kiệu - Võ Dung Nghiệp, ngã tư Phú Nhuận (nay là Phan Đình Phùng) do Đoàn Công tác xã hội Sinh viên học sinh Sài Gòn phụ trách.
Khu vực 4 gồm: Cầu Bông - chợ Bà Chiểu (nay là đường Đinh Tiên Hoàng) do các cơ sở của các trường nữ, khối trung học tư thục phụ trách.
Khu vực 5 gồm: vùng ven Tân Sơn, Tân Phú, Bà Điểm thuộc quận Tân Bình do là nơi quy tụ nhiều đồng bào công giáo nên thanh niên công giáo cùng với các sở, cha xứ... phụ trách.
Để chuẩn bị cho cuộc nổi dậy thành công, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam đã lập các chốt phòng vệ để ngăn cản lực lượng Cảnh sát Việt Nam Cộng hòa biết tin. Đặc biệt, trước khi nổi dậy, một số lượng lớn cờ Chính phủ Cách mạng lâm thời đã được may cùng với nhiều khẩu hiệu, trong đó nội dung hướng tới là lực lượng Việt Nam Cộng hòa cần đầu hàng ngay để hưởng khoan hồng, Chính phủ Cách mạng lâm thời sẽ bảo đảm đầy đủ tính mạng và tài sản của người dân. Ngay sau khi Tổng thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, không còn tiếng súng thì người dân bắt đầu đổ ra đường. Lúc này, lực lượng thanh niên tự vệ Giải phóng nhanh chóng giúp quân Giải phóng tiếp quản các cơ sở chính trị của Việt Nam Cộng hòa và ổn định trật tự.[63] Bên cạnh đó, người dân Sài Gòn cũng bắt đầu đổ ra đường để chào đón, cầm cờ Chính phủ Cách mạng lâm thời dẫn đường cho quân Giải phóng tiến về Dinh Độc Lập.[61]
Đại tá Nguyễn Văn Tàu (sinh năm 1928 ở Bà Rịa – Vũng Tàu), biệt danh Tư Cang, nguyên Chính ủy Lữ đoàn Biệt động 316, người trực tiếp chiếm giữ, bảo vệ cầu Rạch Chiếc để xe tăng tiến vào giải phóng Sài Gòn năm 1975 kể lại: "Điều kỳ diệu là thành phố còn nguyên vẹn, điện nước đầy đủ. Theo tôi có được điều ấy là do nhân dân. Lòng dân hướng về cách mạng, các đoàn thể được tổ chức chặt chẽ. Khi các cánh quân tiến vào thì quần chúng đã đứng lên diệt ác ôn, giải phóng phường, treo cờ cách mạng. Đó là sự chuẩn bị, gây dựng quần chúng từ mấy chục năm. Phong trào quần chúng ví như thùng thuốc nổ, khi có ngòi nổ đủ sức công phá thì sức mạnh quần chúng bung ra không gì cản nổi. Quân đội như chúng tôi chỉ đóng vai trò ngòi nổ đủ mạnh".[64]
Có 50.493 người (trong đó có 2.678 trẻ mồ côi Việt Nam) được di tản từ Sân bay Tân Sơn Nhất. Các phi công đã bay tổng cộng 1.054 giờ và 682 chuyến bay trong suốt chiến dịch.[cần dẫn nguồn] Chiến dịch diễn ra suôn sẻ, không có máy bay nào bị rơi vì quân Giải phóng có lệnh không bắn vào các máy bay Mỹ di tản.
Kết quả
Sự kiện 30 tháng 4 năm 1975 có vai trò rất quan trọng và lâu dài trong lịch sử Việt Nam với kết quả:
Chấm dứt Chiến tranh Việt Nam và Chiến tranh Đông Dương, một quá trình chiến tranh hao người tốn của kéo dài 30 năm với những thương vong, tổn thất rất lớn: khoảng 400.000 quân nhân Mỹ và các đồng minh của Mỹ đã chết, khoảng 1,5 triệu lính khác bị thương (trong đó riêng quân Mỹ có 58.191 chết và 304.000 bị thương). Phía Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam có gần 850.000 quân nhân chết (trong đó 240.000 người đến nay vẫn còn trong diện mất tích), 600.000 quân nhân bị thương. Gần 2 triệu dân thường Việt Nam bị chết, hơn 2 triệu dân thường bị thương tật, khoảng 2 triệu người bị phơi nhiễm các loại hóa chất độc hại (ví dụ như chất độc da cam).[cần dẫn nguồn]
Kết thúc sự tồn tại của Chính phủ Việt Nam Cộng hòa. Sự kiện này đã đánh dấu sự thất bại chung cuộc của phía Hoa Kỳ, đồng minh và Việt Nam Cộng hòa trong cuộc chiến tại Việt Nam; chấm dứt việc các cường quốc thế giới can thiệp trực tiếp bằng quân sự vào Việt Nam trong suốt hơn 100 năm (từ 1858 tới 1975).
Là điều kiện để thống nhất về mặt nhà nước của Việt Nam. Thực hiện quyết định của Hội nghị Hiệp thương Chính trị của đại biểu miền Bắc và miền Nam họp ở Sài Gòn tháng 11 năm 1975, ngày 25 tháng 4 năm 1976 toàn quốc tiến hành tổng tuyển cử bầu quốc hội chung của nước Việt Nam thống nhất. Quốc hội thống nhất họp tại Hà Nội từ ngày 24 tháng 6 đến ngày 3 tháng 7 năm 1976 đã quyết định đặt tên nước là Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và đã bầu các thành viên của cơ quan chính quyền nhà nước. Việt Nam đã bước ra khỏi chiến tranh và thực sự trở thành một quốc gia thống nhất.
Hàng trăm nghìn binh lính thuộc Việt Nam Cộng hòa phải học tập cải tạo trong các trại cải tạo với thời hạn khác nhau từ vài ngày (đối với những viên chức cấp thấp, không có ảnh hưởng trong xã hội, không có tư tưởng chống Cộng) đến 10 năm (đối với những viên chức, sỹ quan cấp cao và có tư tưởng chống Cộng mạnh mẽ). Một trong các mục đích của việc học tập cải tạo là thể hiện Chính sách khoan hồng của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Việt Nam khi họ không đưa các cựu binh đối phương ra xét xử các tội ác chiến tranh và tội ác chống lại loài người.[65] Đồng thời cũng để chính quyền mới tạm thời ngăn chặn sự chống phá của các thành viên cực đoan của chế độ cũ nhằm giữ ổn định xã hội miền Nam thời kỳ hậu chiến.[66] Sau thời gian đi học tập cải tạo, những người này được phục hồi đầy đủ quyền công dân. Các cơ quan công quyền có trách nhiệm tạo điều kiện để người hoàn thành học tập cải tạo về được lao động sản xuất để có cuộc sống ổn định lâu dài.[67]
Nhận định
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa Miền Nam Việt Nam
"Đây là thắng lợi của cả dân tộc, không phải của riêng ai." - Lê Duẩn[68]
"Trong quá trình cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng, ba cái mốc chói lọi bằng vàng: Tổng khởi nghĩa tháng Tám, chiến thắng Điện Biên Phủ và chiến thắng mùa xuân 1975, đại thắng mãi mãi sáng ngời trong sử sách. Nhân dân Việt Nam đã làm nên câu chuyện thần kì tưởng chừng không thể làm được giữa thế kỷ XX. Lần đầu tiên trong lịch sử, một dân tộc vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, kinh tế kém phát triển, đánh thắng những cường quốc, đế quốc chủ nghĩa chủ yếu bằng sức của chính mình, nêu một tấm gương anh dũng, bất khuất, trí tuệ, tài năng trước toàn thế giới.” - Đại tướng Võ Nguyên Giáp[69]
"Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc... Đối với thế giới, thắng lợi của nhân dân ta đã đập tan cuộc phản công lớn nhất của tên đế quốc đầu sỏ chĩa vào các lực lượng cách mạng kể từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, đẩy lùi trận địa của Chủ nghĩa Đế quốc, mở rộng trận địa của Chủ nghĩa Xã hội, phá vỡ một phòng tuyến quan trọng của đế quốc Mỹ ở Đông Nam Á, làm đảo lộn chiến lược toàn cầu phản cách mạng của chúng, đẩy Mỹ vào tình thế khó khăn chưa từng thấy, làm yếu hệ thống đế quốc chủ nghĩa, tăng thêm sức mạnh và thế tiến công của các trào lưu cách mạng thời đại, đem lại lòng tin và niềm phấn khởi cho hàng trăm triệu người trên khắp trái đất đang đấu tranh vì hòa bình độc lập dân tộc, dân chủ và Chủ nghĩa Xã hội". - Lê Duẩn[70]
Trong thời đại ngày nay, khi các lực lượng cách mạng thế giới ở thế tiến công, một dân tộc nước không rộng, người không đông, song đoàn kết chặt chẽ và đấu tranh kiên quyết dưới sự lãnh đạo của một đảng Mác-Lê-nin, có đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn, giương cao hai ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, được sự đồng tình ủng hộ và giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa, các lực lượng cách mạng và nhân dân tiến bộ trên thế giới, thì hoàn toàn có thể đánh thắng mọi thế lực đế quốc xâm lược, dù đó là tên đế quốc đầu sỏ" (Nghị quyết Đại hội lần thứ IV của Đảng Cộng sản Việt Nam).[cần dẫn nguồn]
"Toàn thắng của chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975 đã đưa Việt Nam tới đỉnh cao của giải phóng dân tộc và uy tín của quốc tế. Thắng lợi của Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ không chỉ là một tác nhân đưa đến những thay đổi rất quan trọng trong chiến lược của các nước lớn mà còn làm chuyển đổi cục diện chính trị khu vực Đông Nam Á". (Trần Quang Cơ)[71]
"Thắng lợi hoàn toàn và trọn vẹn của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mùa Xuân năm 1975 là một thắng lợi vĩ đại nhất, hiển hách nhất trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, mở ra một kỷ nguyên mới đầy hứa hẹn cho Tổ quốc ta". (Văn Tiến Dũng)[72]
"Quân đội Nhân dân Việt Nam ở cả miền Bắc và miền Nam, như Chủ tịch Hồ Chí Minh nói là một quân đội anh hùng của một dân tộc anh hùng, có tinh thần quyết chiến rất cao, thông minh và sáng tạo. Còn vị tướng dù có công lao lớn đến đâu cũng chỉ là giọt nước trong biển cả. Chỉ có nhân dân Việt Nam là người đánh thắng Mỹ". (Võ Nguyên Giáp)[73]
"Ngày 30 tháng 4, không có chuyện miền Bắc chiến thắng hay miền Nam chiến bại, mà chỉ có Đế quốc Mỹ thất bại trước nhân dân Việt Nam mà thôi". (Bùi Tín)[74]
"Giữa chúng ta không có kẻ thua người thắng, mà chỉ có dân tộc Việt Nam chúng ta chiến thắng đế quốc Mỹ". (Thượng tướngTrần Văn Trà, Tư lệnh Quân quản Sài Gòn, nói với Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Dương Văn Minh)[75]
"Đại thắng mùa Xuân năm 1975 là một trang sử hào hùng trong lịch sử dựng nước và giữ nước vĩ đại của dân tộc ta. Chúng ta đã hoàn thành được sứ mệnh lịch sử vẻ vang là giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, đưa nước ta bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên của độc lập, thống nhất và cùng nhau xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa - dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh". - Nguyễn Tấn Dũng[70]
Hoa Kỳ
"Không còn nghi ngờ gì nữa đối với các ý đồ của phe Cộng sản. Họ sẽ tấn công Việt Nam Cộng hòa khi nào có thời cơ thuận lợi; nhưng lần này sẽ là một cuộc tấn công quân sự với khí thế áp đảo!" (William Colby)[76]
"Chiến tranh Việt Nam, theo phân tích cuối cùng, là một trận đấu giữa Mỹ và người được họ bảo vệ và trợ cấp dồi dào với phong trào cách mạng mà gốc rễ giai cấp và cơ sở tư tưởng đưa lại cho họ một sức bật và một sức mạnh to lớn... Nguồn sức mạnh quan trọng nhất của Đảng Cộng sản trên ba mươi lăm năm qua là quan niệm của họ về một đạo đức cách mạng xã hội chủ nghĩa và sự nhấn mạnh của họ đối với ý nghĩa hàng đầu của mọi hành động và giá trị đưa đến một xã hội xã hội chủ nghĩa. Khả năng của Đảng phát triển một tổ chức mà cuộc sống của những thành viên phù hợp với những nguyên tắc nói trên, đã làm cho họ đạt được mục tiêu của họ". (Gabriel Kolko)[77]
"Sau những năm dài tìm cách khuất phục những dân tộc nghèo khổ bằng sự tàn bạo của sức mạnh kỹ thuật của mình, nước Mỹ, một nước giàu mạnh nhất trên quả đất này, cuối cùng có thể bị những người cộng sản Việt Nam đuổi ra khỏi bán đảo Đông Dương. Nếu đúng như vậy, thì thắng lợi của người Việt Nam sẽ là một thí dụ vô song về sự toàn thắng của trí tuệ con người đối với máy móc". (Neil Sheehan)[79]
"Chính quyền Việt Nam Cộng hòa sụp đổ chỉ sau 55 ngày kể từ khi quân Giải phóng bắt đầu tấn công. Điều này cũng chứng minh cho căn bệnh mà chính quyền này đã bị nhiễm phải ngay từ khi thành lập: sự manh mún về chính trị; thiếu các nhà lãnh đạo có tầm nhìn xa trông rộng và có năng lực; một tầng lớp trên mệt mỏi và tham nhũng không có khả năng điều chỉnh cho thích nghi đã tạo nên một cơ sở quốc gia yếu kém đến mức nguy hiểm... Trước những thực tế khắc nghiệt này, nỗ lực nhằm tạo nên một thành trì chống cộng ở ngay phía nam vĩ tuyến 17 đã có mầm mống thất bại ngay từ đầu".George C. Herring[80]
"Đó là một cuộc chiến tranh (chiến tranh Việt Nam) lâu dài và khó khăn mà chúng ta đã thua. Thất bại độc nhất của lịch sử Hoa Kỳ chắc sẽ không báo trước sức mạnh bá chủ toàn cầu của nước Mỹ đã chấm dứt. Nhưng... Ai không học được gì ở lịch sử, bắt buộc sẽ phải lặp lại sai lầm trong lịch sử". (Tom Polgar, nhân viên cao cấp tòa Đại sứ Mỹ ở Việt Nam)[cần dẫn nguồn]
"Sao chúng [Việt Nam Cộng hòa] không chết phứt đi cho rồi? Điều tệ hại nhất có thể xảy ra là chúng cứ sống dai dẳng hoài". - Henry Kissinger, nói trên chuyến bay ngày 9/4/1975.[81]
"Hà Nội chỉ chiến đấu với một lẽ duy nhất, đó là lòng yêu nước của họ. Và một nước Việt Nam thống nhất dưới sự lãnh đạo của những người cộng sản Việt Nam, chiến thắng vào năm 1975, chính là mối đe dọa chiến lược to lớn đối với Trung Quốc còn hơn đối với Mỹ" - Henry Kissinger.[cần dẫn nguồn]
"Người Mỹ họ có đường lối của họ: đó là họ phải nắm chỉ huy ở miền Nam này. Họ chỉ huy trong mọi lĩnh vực, từ chính trị, kinh tế tới ngoại giao... Mỹ nắm hết. Rồi chính Mỹ đã từ bỏ miền Nam Việt Nam". - Tướng Nguyễn Hữu Hạnh[83]
"Ngày 10 tháng 3 năm 1975, Quân đội Bắc Việt Nam đánh chiếm Ban Mê Thuột. Đến ngày 30-4 đã tiến vào Sài Gòn. Tốc độ như vũ bão, vỏn vẹn chỉ có 52 ngày... Nói tới cung cách ra đi, sao thật quá thê thảm. Trong trường kỳ, việc bỏ rơi, nhất là "cung cách tháo chạy" đã làm tổn hại rất nhiều tới "mức độ tin cậy" của chính sách ngoại giao cũng như uy tín Hoa Kỳ. Bạn thì hết tin tưởng, kẻ thù thì hết kính sợ... - Cựu Bộ trưởng Kinh tế Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Tiến Hưng[84]
"Thống nhất xứ sở là nhiệm vụ lịch sử của mỗi một người con Việt Nam nhưng chúng tôi đã không làm được. Nhưng những người anh em phía bên kia đã làm được, phải chấp nhận đó là lịch sử và đất nước đã được thống nhất rồi. Vậy mà còn quay ra nói phục quốc? Nước Việt Nam có mất cho Tây cho Tàu đâu mà phục quốc?" - Cựu Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Cao Kỳ (nhận xét về việc các cựu quan chức Việt Nam Cộng hòa lưu vong ở hải ngoại gọi ngày 30/4 là "Quốc hận" và đòi "phục quốc").[85]
"Ngày hôm nay (30/4/1975), đại diện cho các anh em có mặt tại đây, tôi nhiệt liệt hoan nghênh sự thành công của Chính phủ Cách mạng (lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam) trong công cuộc vãn hồi hòa bình cho đất nước. Với kỷ nguyên mới này, tôi mong rằng tất cả anh em có mặt tại đây, cũng như các tầng lớp đồng bào, sẽ có dịp đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng đất nước… Tôi nghĩ rằng với hành động của mình (đầu hàng), tôi đã góp phần tránh một cuộc đổ máu vô ích cuối cùng cho Sài Gòn. Đó là phần đóng góp cụ thể của tôi trong cuộc chiến đấu này. Riêng cá nhân tôi, hôm nay tôi rất hân hoan khi được 60 tuổi, trở thành một công dân của một nước Việt Nam độc lập" (Tổng thống Dương Văn Minh).[86]
"Chiến thắng 30/4/1975 rất vĩ đại, là chiến thắng của sức mạnh toàn dân tộc Việt Nam...[87] Không còn chiến tranh, không còn bom rơi đạn nổ trên quê hương mình là điều lớn nhất mà việc kết thúc chiến tranh mang lại".[88] (Tướng Nguyễn Hữu Có, Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc phòng, đồng thời là Tổng Tham mưu trưởng Việt Nam Cộng hòa)
Học giả, chính trị gia khác
Koike Yuriko, cựu Bộ trưởng Quốc phòng và Cố vấn An ninh Quốc gia Nhật Bản, Chủ tịch Hội đồng Đảng Dân chủ Tự do (LDP), hiện là thành viên của Quốc hội Nhật Bản: "Chiến thắng của nước này [Việt Nam] trước Pháp và Hoa Kỳ đã trở thành định nghĩa cho những cuộc chiến giành độc lập trong thời kỳ hậu thực dân".[89]