- Ảnh hưởng nghiêm trọng, thậm chí mất cơ hội kiếm việc bởi nói ngọng “l, n” là thực tế  đã và đang diễn ra đối với nhiều người ở nơi làm việc.Xung quanh câu chuyện Hà Nội chữa nói ngọng, VietNamNet đã nhận được hàng trăm ý kiến phản hồi, tranh luận về việc có nên hay không nên sửa cách phát âm “l,n”. Nhiều trong số đó là chia sẻ của chính những người nói ngọng.

Người nghe khó lọt tai

“Tôi cũng là người sinh ra và lớn lên thuộc miền Bắc. Hiện giờ tôi đang sống và làm việc tại miền Nam. Tôi đã học xong đại học và cảm thấy thực sự nhục nhã khi mình nói ngọng. Điều này làm nghề nghiệp của tôi bị ảnh hưởng trầm trọng” – bạn đọc Hà Thị Tình tâm sự.

Chia sẻ  về điều này, bạn đọc Trần Trung cho rằng: “Tôi  đã thấy nhiều người sửa được lỗi "l,n" này, và khi sửa được thì giao tiếp sẽ tốt hơn. Khác với các trường hợp ngọng khác, trường hợp ngọng "l,n" này thường làm người nghe cảm thấy hơi sốc và khó lọt tai. Vì vậy, nếu sửa được thì sẽ rất tốt.

Tôi cũng ủng hộ rằng cần phải có chuẩn mực chung, như  thế sẽ thuận tiên hơn cho việc giao tiếp. Tóm lại, lỗi nói ngọng này nhất thiết phải sửa, hãy hành động ngay hôm nay, để 10, 20 năm nữa khi các em nhỏ lớn lên và đi giao tiếp trong xã hội thì các em không phải mặc cảm tự ti vì các phản ứng của xã hội”.
Ứng viên dễ bị mất điểm khi đi phỏng vấn tuyển dụng với phát âm lẫn lộn "l, n" và khó khăn khi học ngôn ngữ nước ngoài. Ảnh có tính chất minh họa. Lê Anh Dũng

Bị  tẩy chay

Trong dòng cảm xúc gửi về tòa soạn, bạn đọc Hà Thị  Tình không khỏi băn khoăn: “Các thầy nghĩ sao khi nói chào người nước ngoài "Henno"? Hay nói về “Hà Lội” lại nói ngọng. Người ta sẽ chẳng biết bạn nói gì?

Người miền Nam rất ghét người miền Bắc về cái tật này và người ta không chịu và muốn tẩy chay, coi thường người nói ngọng. Điều này hoàn toàn đúng: Nếu Việt Nam muốn hội nhập với thế giới mà nói người ta chẳng hiểu gì thì làm sao hội nhập nổi”.

Bạn  đọc Nguyễn Tử phân tích: “Ngôn ngữ nào cũng có phương ngữ và phát âm khác nhau; đó là điều tự nhiên và còn làm phong phú tiếng nói của một dân tộc. Nhưng khi cả cộng đồng thấy rằng với cùng một từ mà nói và viết của một vùng khác với đại đa số đến mức gây trở ngại cho việc thông tin chung thì cần phải sửa.

Những người "bị lẫn" khi học ngoại ngữ hay ra nước ngoài đều biết đã phải sửa sai khổ sở  như thế nào. Không chỉ ở ta mà các nước láng giềng cũng gặp khó như vậy. Ngoài l/n, còn nhiều cặp như r/l, đ/t, p/ph... cũng bị lẫn lộn, nhưng ở ta cặp l/n đáng phải sửa hơn cả. Kiên trì thì chắc chắn sẽ có kết quả”.

Nói “không” với nói ngọng

Trao đổi với báo giới, PGS Văn Như Cương, Hiệu trưởng Trường THPT Lương Thế Vinh (Hà Nội) nói mình không bao giờ nhận giáo viên nói ngọng. Khi nhận một giáo viên về trường, ông sẽ xem hồ sơ và phỏng vấn.

"Trong quá trình phỏng vấn ai nói ngọng là tôi biết ngay, và dù giáo viên ấy chuyên môn có tốt đến đâu tôi cũng nhất định không nhận.

Với học sinh, nhất là học sinh lớp lớn, khi nghe thầy cô nói ngọng các em cũng dễ phản cảm và khó tiếp thu. Với những học sinh cấp 1 thì điều này còn nguy hiểm hơn nhiều”.

PGS.TS Nguyễn Hồng Cổn, Chủ nhiệm khoa Ngôn ngữ, ĐH Khoa học xã hội&Nhân văn Hà Nội phân tích: “Khi xác định đây là lỗi phát âm thì cần phải sửa ngay. Việc nói ngọng sẽ gây ức chế trong quá trình tiếp nhận thông tin. Nặng hơn là hiểu sai vì nghĩa của từ thay đổi,…Còn ảnh hưởng về học ngoại ngữ thì đấy, chỉ đơn giản những từ như “hello, listen” mà anh nói là “henno, nisten” thì thật buồn cười”.

Trong câu chuyện của mình, PGS.TS Nguyễn Hồng Cổn lấy ví dụ:  “Trước đây mình có cậu học trò hay lẫn lộn cách phát âm “l,n”, khó khăn khi xin việc. Sau đó qua hướng dẫn và bản thân tích cực sửa nên giờ anh đang làm ở một công ty truyền thông, lương khá tốt.

Hay chẳng đâu xa, năm 1993 khi PGS Cổn đi công tác nước ngoài, con gái nhỏ ở nhà có người giúp việc. Lúc về thăm, thấy con có dấu hiệu lẫn lộn “l,n”  do ảnh hưởng từ cách phát âm sai của người giúp việc,  ông cho cháu sang với tôi 1 tháng. Sau thì cháu sửa được”.

Theo vị  chủ nhiệm khoa Ngôn ngữ: “Những mối nguy hại của việc nói ngọng đã rõ. Các cơ quan Nhà nước hay các trường học,…cần đặt vấn đề này  để sửa. Riêng chuyện không nhận một giáo viên dù  anh chuyên môn giỏi nhưng nói ngọng tôi thấy hơi cứng nhắc. Anh có thể vẫn ký hợp đồng nhưng cho họ thời gian, hạn định để yêu cầu họ sửa. Như vậy hợp lý hơn”.

Họ tên: GS Nguyễn Tử Siêm
Tiêu đề: Nên sửa


Ngôn ngữ nào cũng có phương ngữ và phát âm khác nhau; đó là điều tự nhiên và còn làm phong phú tiếng nói của một dân tộc. Nhưng khi cả cộng đồng thấy rằng với cùng một từ mà nói và viết của một vùng khác với đại đa số đến mức gây trở ngại cho việc thông tin chung thì cần phải sửa. Nhưng người "bị lẫn" khi học ngoại ngữ hay ra nước ngoài đều biết đã phải sửa sai khổ sở như thế nào. Không chỉ ở ta mà các nước láng giềng cũng gặp khó như vậy. Ngoài l/n, còn nhiều cặp như r/l, đ/t, p/ph... cũng bị lẫn lộn, nhưng ở ta cặp l/n đáng phải sửa hơn cả. Kiên trì thì chắc chắn sẽ có kết quả.

Họ tên: Phương Nhi
Tiêu đề: Nói ngọng


Là người Hải Phòng, tôi thấy giờ đây ai cũng biết nói ngọng là không nên và cũng không muốn nói ngọng. Vì thế, giờ chỉ còn những người già thuộc tầng lớp cũ là nói ngọng thôi. Còn thế hệ trẻ bọn tôi cũng biết và cũng cố gắng để sửa rồi.

  • Văn Chung
 không biết bao giờ dân Việt Nam mới hết nói ngọng!
1- Bắc kỳ

Cơ bản sự “ngọng” của dân Bắc kỳ là phát âm “nhẹ” hẳn đi các phụ âm dẫn đầu mỗi chữ (như tr, r, s). Các Ngôn ngữ gia khắt khe hơn thì cho rằng người Bắc “lười” không chịu khó uốn lưỡi một chút cho đúng âm mà lại chọn khuynh hướng đọc dễ dàng hơn: giảm bớt cái âm uốn cong hay cao lên của phụ âm đầu.



Dân Bắc kỳ nhất là các vùng Hưng Yên, Hải Dương, Hải Phòng, Quảng Ninh, Nam Định, Hà Nam, Bắc Ninh, v.v..., và ngay cả dân cư đất “ngàn năm văn vật” - 13 huyện Hà Nội - rất “phổ thông” nói ngọng líu lo (và đặc biệt bị lưu tâm nhiều nhất) hai phụ âm “l,n.” Chẳng hạn:
“Đi Hà lội mua cái lồi về lấu cơm lếp”
(“Đi Hà nội mua cái nồi về nấu cơm nếp”)
Hoặc là:
“Chỗ lước lày lông, nội được!”
(“Chỗ nước này nông, lội được!”)

Hay:
“Thằng Nong nàm việc thì nếu náo; nhưng nòng nợn thì ló gắp nia gắp nịa.”
(“Thằng Long làm việc thì lếu láo; nhưng lòng lợn thì nó gắp lia gắp lịa.”)
“Mình không nàm thì có bảo mình không nàm; mà mình nàm thì ló nại bảo mình nàm nấy nệ.”
(“Mình không làm thì có bảo mình không làm; mà mình làm thì nó lại bảo mình làm lấy lệ. ”)
“Tự nhiên như người Hà lội.”
(“Tự nhiên như người Hà nội.”)

Toàn bộ các chữ có “l” phang tới thành “n” và ngược lại (!)
Đại đa số dân Bắc kỳ (kể cả người viết và gia đình) còn nói trật nguyên âm “r, d, gi” (“rờ” thành ra “dờ” hay “giờ”):
“Kính dâm”
(Kính râm / kính mát)
“Mấy giờ giồi?”
(“Mấy giờ rồi?”)

Một em xướng ngôn viên (bây giờ vi-xi gọi là “phát thanh viên”) của một chương trình truyền hình trên VTV ở Việt Nam loan báo tin thời tiết nghe mà muốn “dởn da gà” luôn như sau:
"Có mưa dào dải dác; nhưng dét da diết.”
(”Có mưa rào rải rác; nhưng rét (lạnh) ra riết.”
“Mưa dừng ơi mưa dừng.”
(Như ông bạn Vũ Khanh của tôi ca lời bản nhạc “Mưa Rừng” của Huỳnh Anh)
Và nổi bật nhất và phổ thông nhất là sai nguyên âm “tr, ch:”
“Mười lăm chăng chòn; mười sáu chòn chăng.”
(“Mười lăm trăng tròn; mười sáu tròn trăng.”)

Hay là:
“Đường xưa lối cũ có bóng che, bóng che che thôn làng
Đường xưa lối cũ có ánh chăng, ánh chăng soi đường đi.”
(Lời ca bài hát “Đường xưa lối cũ” của Hoàng Thi Thơ mà tôi nghe ca sĩ Quang Minh - cũng dân Hải phòng - hát).

Trong khi lời hát đúng phải đọc là:
“Đường xưa lối cũ có bóng tre, bóng tre che thôn làng
Đường xưa lối cũ có anh trăng, ánh trăng soi đường đi.”
Một số địa phương ở Bắc như Nam Định, Ninh Bình và Thái Bình… vẫn phát âm đúng các phụ âm “r, d và gi” trong khi phần lớn các vùng khác (ở miền Bắc) đều phát âm sai.

Nên để ý, thật oái oăm, nghịch lý ở đây là hai thứ ngọng (có lẽ vì lười không chịu uốn lưỡi ?!) rành rành “tr” thành “ch” và “r” thành “d, gi” của dân Bắc kỳ lại được đại chúng có khuynh hướng rộng lượng chấp nhận như là “dạng chuẩn” riêng trong vấn đề hát lời ca của ngành tân nhạc (?). Một vài ca sĩ không phải gốc Bắc kỳ như Ngọc Hạ (Đà Nẵng / Quảng Nam, miền Trung), và Phương Dung (Gò Công, miền Nam) khi hát tân nhạc đôi khi đã cố tình phát âm đúng chữ “tr” (trăng, trong, trời) chứ không đổi sang “ch” như thông lệ thì nghe lại có vẻ rất căng thẳng (?) và ngượng ngạo (?) Thành ra vấn đề âm thanh ngọng (mà thuận tai?) được chấp nhận (hay không) còn tùy vào sự cảm nhận của đại chúng. Như vậy, không có gì gọi là “chuẩn” tuyệt đối cả.

Vùng Hải Hậu, Nam Định thì lại ngọng “tr, t” một cách khác:
"Con tâu tắng nằm cạnh gốc te tụi giữ tưa hè."
("Con trâu trắng nằm cạnh gốc tre trụi giữa trưa hè.”)
Tương tự, một số dân ở địa phương Thái Bình thì lại ngọng chữ “r, d” một cách khác nghe rất lạ tai. Như bà hàng xóm của tôi (gốc Thái lọ) là dân di cư 1954 ở Sài gòn cứ gọi con ơi ới:
“Rương ơi Rương! Ra đây mẹ cho miếng rưa.”
(“Dương ơi Dương! Ra đây mẹ cho miếng dưa.”)
Hà Tây, Hà ta thì cũng “lười,” bỏ bớt dấu huyền của mỗi chữ cho nó đỡ vướng:
“Con bo vang”
(“Con bò vàng”)

Hát là:
“Nhin chiêu vang đôi thông thưa thớt
Long bôi hôi buôn trông theo bóng”
(“Nhìn chiều vàng đồi thông thưa thớt
Lòng bồi hồi buồn trông theo bóng”
(Lời bản nhạc “Chiều Vàng” của Nguyễn Văn Khánh)

Người Bắc đọc sai tất cả chữ phụ âm “s” thành âm “x” hết ráo trọi; trong khi người miền Trung và miền Nam lại phân biệt “s, x” rất rõ ràng. Bắc kỳ đọc “s, x” như sau đây:
“Xáng xớm xương xuống xào xạc; xã xệ xửa xoạn xuống xuồng xang xông.”
(“Sáng sớm sương xuống xào xạc; xã xệ sửa soạn xuống xuồng sang sông.”)
Mẹ tôi còn kể thêm là ở ngoài Bắc, có vùng còn ngọng nguyên âm “s, x” ra “th” mà tôi chưa kiểm chứng được xem ra loại ngọng này thuộc vùng nào (Kính nhờ các bác uyên thâm bổ túc dùm nhà cháu ở phần này):
“Thúng hay thấm? hay trẻ con thậm thàn”
(“Súng hay xấm? hay trẻ con dậm sàn”)

2- Trung kỳ

Dân Trung kỳ (Huế và các xứ Quảng) hầu hết nói chéo (sai) hai dấu hỏi ngã:

“Đễ kỹ niệm”
(“Để kỷ niệm”)
(Nhà văn PNN tiếp lời MC Nam Lộc trên một “Asia DVD” trong chủ đề “Vinh danh người lính QLVNCH”).
Hoặc đổi phụ âm “t” thành “c” ở cuối chữ:
“Làm lụng đầu tắc mặc tối.”
(“Làm lụng đầu tắt mặt tối.”)

Người Huế chính gốc “ớt hiểm” còn chơi thêm dấu “nặng” vào hầu hết các các chữ; và đồng thời thêm “g” ở cuối chữ “không g.” Hiểu như vậy thì quý vị cũng đừng ngạc nhiên khi một cô thợ hớt tóc người Huế thơ mộng hỏi: “Anh muốn cắt dài hay cắt ngắn?”
“Hắng” / “Hắn”
Miền Trung, nhất là xứ Quảng, đôi khi xài sang, cho thêm nguyên âm “o, a” ở giữa chữ cho long trọng:
“Đo(á)m noái / Đám nói”
Hay:
“Đo(á)m hoải / Đám hỏi.”
Hoặc:
“Lâu đo(à)i tình o(á)i.” / Lây đài tình ái.”
Vùng Bình Định Qui Nhơn phát âm “hơi sai” nguyên âm “a, ă, e, ê, iê:”
“Nem boa bửa không tém một bửa”
(Đọc số phone: “537-0817”)

Hoặc:
“eng / ăn;” ” “téc đèng / tắt đèn;” “Chó kéng / Chó cắn;” “Nghem / Nghiêm.”
Dân Khánh Hòa, Phú Yên ngoài “a, ă, e, ê, iê...” (nhưng nghe sai có vẻ nhẹ nhàng hơn người Bình Định) còn đọc “ơ” thành ra “u” mới chết người. Gia đình thằng em cột chèo của tôi người Nha Trang (Khánh Hòa) nói thoải mái mời tôi:
“Mời anh ở lại ăn cum / ăn cơm.”

3- Nam kỳ

Dân Nam kỳ, đa số, có khó khăn khi phát âm các chữ bắt đầu bởi phụ âm “v, d.” Chẳng hạn:
“Dân dzệ dê dzợ dân dzận. Dân dzận dzậng dân dzệ.”
(“Anh lính Dân Vệ mê vợ của anh cán bộ của Ty Dân Vận Chiêu hồi. Làm cho anh cán bộ Dân Vận Chiêu Hồi giận hết sức!”

Hoặc:
“Cười lên đi để dzăng dzàng sáng chói / Răng vàng”
(Lời hát nhái trong dân gian cho câu “Kìa thôn quê dưới trăng vàng bát ngát” từ bài “Khúc ca ngày mùa “của Lam Phương).

Hoặc:
“Đi đâu chơi mới dzề hả? Dzui hông?...”
(“Đi đâu chơi mới về hả? Vui không?”)
Và sai lẫn lộn phụ âm “t, c” ở cuối mỗi chữ, đồng thời đôi khi tiện tay bỏ bớt nguyên âm (a, e, i, o, u) ở giữa chữ:
“Giữ chặc tình thân hủ / Giữ chặt tình thân hữu;”
“Cúi từng có giá đặt biệt / Cuối tuần có giá đặc biệt”

Đồng bào “Nam bộ” ta cũng dùng chéo (sai) hai dấu “hỏi ngã” và thêm “g” vào chữ “không g” như các bác Trung kỳ:
“Cho tui xin nửa chéng cơm nửa.”
(“Cho tôi xin nửa chén cơm nữa.”)
“Tổ quắc ăng năng / ăn năn”

Bà mẹ vợ tôi, người gốc Long Xuyên, khi nói đã tự ý đổi “y” thành “i” ở cuối chữ; đôi khi nghe cũng dễ bị hiểu lầm lắm (?):
“Tịm chúng tôi có báng đủ các lọi đồng hồ đeo tai.”
“Tiệm chúng tôi có bán đủ các loại đồng hồ đeo tay.”
(Như lóng rày ca sĩ BC làm quảng cáo cho tiệm đồng hồ Tic-Toc trên TV) .

Riêng dân vùng đồng bằng sông Cửu Long: Cần Thơ, Bạc Liêu, Sóc Trăng còn ngầu hơn, miệt này phát âm chữ “r” thành ra “g” nghe thoáng như lưỡi bị ngắn (?) hoặc giống tiếng Miên (?):
“Bắt con cá gô bỏ gổ, nó gục gịch gục gịch gớt dzào gổ gau găm.”
(“Bắt cá rô bỏ rổ, nó rục rịch rục rịch rớt vào rổ rau răm.”)
Tôi có rất nhiều bạn nói kiểu “đi ga chết gồi” (“đi ra chết rồi”) này. Nghe riết rồi cũng quen tai.

Ngoài ra, còn có hàng chục thổ ngữ nhỏ khác với cách phát âm và chữ dùng mà người vùng khác không tài nào hiểu nổi. Tuy nhiên bài viết ngắn này chỉ là một bài tạp bút, không phải là một bài khảo cứu ngôn ngữ; cho nên, trong phạm vi giới hạn, không tiện kể ra hết cho hoàn tất, đầy đủ. Nếu hưởn, quý vị có thể tự tìm hiểu thêm. Có một điều đáng để ý là người miền Nam nói sao thì họ viết y như vậy cho nên người Nam dễ bị sai chính tả (ngọng viết) hơn là đồng bào miền Bắc và Trung – Người miền Bắc và Trung tuy phát âm sai nhưng phần lớn lại viết đúng chính tả!

A. Kinh nghiệm gia đình và cá nhân người viết

Tôi sinh ra tại vùng ngoại ô của thành phố Hải Phòng vào năm 1950 và lớn lên ngay giữa trung tâm thành phố này – Thật ngẫu nhiên, Hải Phòng cũng là sinh quán của một số văn nghệ sĩ tên tuổi đương thời như: nhạc sĩ Văn Cao, Gia đình Lữ Liên (Lữ Liên, Thúy Liễu, Bích Chiêu, Tuấn Ngọc, Khánh Hà, Anh Tú, Thúy Anh, Lưu Bích... cả tiểu đội!), kép cải lương Hùng Cường, minh tinh Thẩm Thúy Hằng, nhạc sĩ Ngô Thụy Miên, ca sĩ Thu Phương, Quang Minh... (người viết xin phép được tiện đây thấy người sang bắt quang làm họ một tí cho thay đổi không khí!) nhưng đồng thời tôi cũng tự phát giác ra Hải Phòng là “thủ đô nói ngọng” (loại “phản cảm,” “nhà qué” “có 102 - một không hai ” “l,n”) của Việt Nam (xin lưu ý: Tôi thấy các “siêu sao” gốc Hải Phòng nổi tiếng mà tôi vừa liệt kê ở trên không có “sao” nào nói ngọng “l,n” cả mới là lạ !).



Gia đình nhỏ của bố tôi có 3 anh em trai, tất cả đều sinh ra tại Hải Phòng. Tôi cứ nhắm mắt mà vẫn yên tâm cam đoan là cả ba người (bố tôi và hai ông chú) đều nói ngọng lúc thiếu thời... Khi lớn lên, bố tôi và một ông chú nhỏ tuổi nhất làm “cách mạng kinh tế” phá rào, vượt qua lũy tre xanh, rời xa khỏi địa bàn Hải Phòng, đi lính quốc gia... Kết quả, sau này hai người (Bố tôi và ông chú trẻ) nói và viết tiếng Viêt không còn ngọng một tí ti ông cụ nào. Riêng ông chú tuổi kế bố tôi ở lại “bám trụ” Hải Phòng ngay từ ngày đầu chú mới sinh ra cho tới tận bây giờ; thì ông chú này và 8 đứa con vẫn ngọng đặc cán mai. Năm 1948, bố tôi 24 tuổi từ Sài Gòn trở về Bắc làm cảnh sát Hải Phòng; và lập gia đình với mẹ tôi - mẹ tôi cũng là dân sinh quán Hải Phòng; và chính mẹ tôi cũng nói ngọng “l,n” khá nặng. Tôi và 3 đứa em lớn được sinh ra tại Hải Phòng. Năm 1954 gia đình tôi (bố mẹ và 4 anh em tôi) tị nạn cs, theo làn sóng di cư vào Nam. Đến hôm nay, gia đình tôi có cả thẩy 8 anh em ruột và gia đình ông chú trẻ của tôi có 5 đứa con; tất cả chúng tôi (tổng cộng 13 người con của thế hệ thứ nhì) không có một ai nói ngọng “l,n” (nên biết chúng tôi nói rặc tiếng Bắc 54 y chang như quý vị nghe giọng nói của ca sĩ Vũ Khanh và Ý Lan – hoàn toàn khác hẳn với giọng Bắc kỳ 75 của Bằng Kiều, Nguyễn Hồng Nhung).

Năm 2005 tôi có dịp về Việt Nam, ghé qua thăm quê quán Hải Phòng thì mới thấy là tất cả toàn bộ (“chăm phần chăm”) họ hàng bên nội bên ngoại của tôi đều ngọng “l,n” hết ráo. Môt cô cháu gái của tôi, tuổi hai mươi mấy, trông dáng trắng da dài tóc xinh xắn, làm giáo viên tiểu học ở Hải Phòng, cũng ngọng “l,n” rất trầm trọng (có nghĩa là tất cả các chữ “l” đều đánh ra thành “n” và ngược lại); Ngọng líu lo (“l,n”) mà làm nghề mô phạm dậy trẻ con thì xem ra còn tệ hơn là đặc công khủng bố (văn hóa). Làm thiệt mạng (rất nhiều) người chứ chẳng phải chuyện đùa!

Qua kinh nghiệm của gia đình và cá nhân tôi thì sự phát âm sai (ngọng) phần lớn là vì ảnh hưởng của môi trường phát âm sai (Hải Phòng); không phân biệt được chữ đúng... Nếu có dịp đi ra khỏi môi trường ngọng này, như bố tôi chẳng hạn, và hội nhập vào môi trường phát âm đúng; hoặc có người chỉ dẫn như được học hành với thầy cô nói tiếng Việt chuẩn thì sự “ngọng” có thể dần dần sửa chữa được. Như vậy, “ngọng” là một bệnh nan y thật nhưng không phải là hoàn toàn hết thuốc chữa...

Điều đáng chú ý là ngoại trừ loại ngọng “phản cảm” “l,n”, hầu hết các loại ngọng hay phát âm sai bét khác đều được công chúng dễ dãi xí xóa thông cảm. Ngọng “l,n” đặc biệt bị phân loại là “sai cơ bản,” “bất bình thường”, “không chấp nhận được”. Trong giao tiếp bình thường mọi ngày, người ngọng “l,n” đôi khi còn bị hiểu lầm và bị “đánh giá” thấp như “nhà quê,” “ít học,” “kém văn hóa...” Trời đất! Quê tôi!

B. Bàn thêm một chút về lý do ngọng

Bên trong vòng đai lũy tre xanh, một cộng đồng khép kín, buổi sáng thức dậy đi làm ruộng, tối trở về nhà ăn uống nghỉ ngơi rồi ngày mai lại thức dậy đi làm ruộng tiếp thì với cuộc sống đơn giản như vậy, số người tiếp xúc hàng ngày chỉ loanh quanh là người trong gia đình làng xóm... Lời ăn tiếng nói hàng ngày và phong tục đã thấm sâu vào trong con người. Sự nói ngọng (phát âm sai) đã trở thành thói quen chung (cả làng đều ngọng cả), không ai thấy có nhu cầu hay tác động gì cần thiết phải sửa đổi.

Sau khi ra khỏi lũy tre xanh, gia nhập một cuộc sống phức tạp hơn, bon chen hơn, phải giao tiếp rộng rãi hơn với mọi người khác xứ; rồi qua phản ứng của họ (người khác xứ nghe mình nói ngọng thương hổng nổi!) người phát âm sai lúc đó mới cảm thấy được những cái bất lợi của việc phát âm sai của mình. Từ đó tác động vào ý muốn sửa chữa, vượt qua những lỗi phát âm.

Có một anh chàng “ngọng” đẹp trai vừa chân ướt chân ráo ra khỏi lũy tre xanh; vào một buổi đẹp trời phải lòng một em gái văn minh phố thị. Mặc dù anh biết cô em nhiều lần tỏ vẻ lạnh lùng không muốn thân thiện (phần lớn cũng chỉ vì kỳ thị tiếng nói ngọng), nhưng anh đẹp trai đã lỡ yêu rồi nên cũng liều, cố lấy hết can đảm viết ra một lá thư tình “ngọng.” Quý vị thử tưởng tượng xem khi đọc lá thư “phản cảm” này đại khái như dưới đây thì liệu cô nàng “xí xọn, khó tính” có mủi lòng được hay không?

“Em Nan ơi. Anh đã nhiệt niệt no nắng cho em đủ mọi chuyện thế mà em vẫn chưa hiểu cho nòng anh; Em vẫn tỏ vẻ nạnh nùng với anh. Bây giờ anh không biết phải nàm thế lào để nấy được nòng em....
Nễ.”

Em Lan (“Nan”) vì đã “dị ứng” sẵn với sự ngọng của anh Lễ cho nên tỏ vẻ cự tuyệt hơi quyết liệt. Em Lan dùng chính ngôn ngữ của anh “Nễ” trả lời anh “Nễ” vì mong anh “Nễ” dễ hiểu rõ ý của em. Em Lan viết trả lời anh “Nễ” đại khái như vầy:
“Anh Nễ nàm em sợ nắm. Em còn bé, không dám nghĩ đến chuyện tình cảm người nhớn... Nếu anh không giận em thì xin anh vui nòng nàm phúc sơ tán qua vùng khác nàm ăn để em còn yên chí học hành; no cho tương nai.
Lan.”

Chuyện tình cảm tha thiết, thành thật, đứng đắn mà không may dùng phải chữ nghĩa ngượng ngạo của vi-xi; cộng thêm chữ viết ngọng thì là một thảm kịch chứ không giống hai người đang diễn hài (kịch)... Có lẽ anh Lễ cần rất nhiều may mắn (và cả phúc đức nữa) mới có cơ may kết duyên với một em gái không ngọng.
Thiệt tình. Ai bảo cuộc đời này không bất công?

C. Làm sao sửa được tật nói ngọng

Trước hết người nói ngọng phải tự ý thức được sự ngọng của mình thì vấn đề sửa đổi mới có hiệu quả - Cái mục này nói thì dễ lắm mà làm là chuyện vượt cả Trường Sơn Đông lẫn Trường Son Tây trong một buổi...). Đối với một số người bảo thủ lý luận là: “Đây là tiếng mẹ đẻ; cha ông tôi đều nói như vậy. Tại sao phải thay đổi?” thì đành chịu.

Khoảng 5 tuổi trở lên, trẻ con bắt đầu hiểu được tiếng nói, và biết bắt chước cách phát âm tiếng mẹ đẻ. Nếu ngôn ngữ được uốn nắn ngay từ lúc này thì rất tốt (kể ra càng sớm càng tốt). Người đứng ra hướng dẫn và uốn nắn tốt nhất là thầy cô giáo vì ngay cha mẹ nhiều khi cũng đã ngọng sẵn rồi còn gì. Các cô giáo có than phiền là dù đã tương đối thành công sửa giọng ngọng của các em ở trong lớp; nhưng khi các em trở về nhà, sống giữa gia đình ông bà bố mẹ anh chị đều nói ngọng thì các em lại ngọng trở lại... Xem ra “sự nghiệp giải phóng dân tộc” còn dễ hơn là “sự nghiệp giải phóng ngọng!”

Muốn chữa nói ngọng thì phải nói cho chậm rãi để có thời giờ nghĩ và chỉnh các âm sai. Thầy giáo và bạn bè thân thiết có thể giúp đỡ rất hữu hiệu trong việc nhận diện các âm sai và sửa sai. Quan trọng nhất là sự kiên tâm, chịu khó luyện tập lâu dài. Ở Mỹ có những chuyên viên về sửa chỉnh ngôn ngữ (Speech Therapist / Speech Therapy) được đào tạo đặc biệt để giúp các công dân Mỹ có vấn đề phát âm Anh Ngữ như ngọng, cà lăm. Các tay chơi thể thao nổi tiếng như Bill Walton (basketball), Bo Jackson (football) bị cà lăm rất nặng khi họ mới xuất hiện trong các cuộc phỏng vấn từ của các đài truyền hình thể thao phát hình các trận đấu giữa các trường đại học hoặc thể thao chuyên nghiệp. Thế mà chỉ sau một thời gian ngắn, nhìn thấy rõ là họ đã có thể trở thành người ăn nói bình thường, trôi chảy khi họ đảm nhận các vai trò phân tích thể thao (sprt analysts) cho truyền hình Mỹ trong các trận đấu.

Đã có nhiều ý kiến cấp tiến khá mạnh dạn cho rằng giải quyết vấn đề ngọng phải bắt đầu ngay từ lớp thấp nhất của trường tiểu học. Các trường sư phạm đào tạo thầy giáo, cô giáo tiểu học được đề nghị sẽ phải bắt buộc có điều kiện thu nhận khắt khe: Chỉ thu nhận thí sinh, sinh viên (làm thầy giáo trong tương lai) không ngọng. Có như vậy thì mới mong tìm ra lời giải, cách xuyên phá được vòng lẩn quẩn (dirty cycles), của bài toán “ngọng.” Tình trạng ngọng hiện nay ở trong nước thật đáng bi quan: Nhiều trường học của các huyện nằm ngay trong thủ đô, cái nôi văn hóa, Hà Nội (huyện Đông Anh hay Mỹ Linh chẳng hạn) có đến 30-40% tổng số học sinh tiểu học nói ngọng và 20-30% giáo viên ngọng - mà cả thầy Hiệu trưởng và Hiệu phó cũng ngọng luôn thể !

“Còn trời còn đất còn non nước
Có lẽ ta đâu (ngọng) mãi thế này.”

Trần Văn Giang

Tiếng Việt của Việt cộng? Tiếng Việt của Cộng hòa?

Lê Trương
2019.07.26
sharethis sharing button
000_HKG2005050159055_960.jpgHình minh họa. Một bạn trẻ người Việt ở Mỹ cầm cờ Việt Nam Cộng Hòa trong một cuộc tuần hành vì tự do cho Việt Nam ở Washington DC hôm 30/4/2005
 AFP

Cách đây mấy năm, anh bạn tôi là một nhà báo người Việt, đang làm ở một tờ báo tiếng Việt tại Mỹ than thở: “Khó quá đi trời đất ơi! Các cụ bắt bẻ từng từ một. “Sân bay” không được, phải gọi “phi trường”. “Đường băng” không được, phải xài “phi đạo”. “Tài khoản” (ngân hàng) không được, phải xài “trương mục”… Các cụ bảo “sân bay”, “đường băng”, “tài khoản” là từ của Việt Cộng, cấm xài. Phải xài từ của Cộng hòa mới được!

Mà nói hay viết theo mấy cụ thì mình cũng chịu. Mình chưa đến 35 tuổi, các cụ thì sáu mươi bảy mươi cả, từ ngữ các cụ dùng chẳng còn trong sách vở hay giao tiếp thời này, chẳng mấy ai còn nói hay viết như thế. Giới trẻ làm sao hiểu? Mà không xài thì các cụ giận, các cụ bảo mình là cộng sản, rồi các cụ tẩy chay báo”.

Tôi cười lăn cười bò. Cười xong, tôi nổi cái tật tò mò táy máy, đi kiếm thử coi chuyện ảnh nói có thiệt không.

Hóa ra là thiệt.

Hóa ra có cả một nhóm người sống ở hải ngoại luôn muốn tẩy chay tiếng Việt đang được dùng trong nước. Họ bảo đó là tiếng Việt của Việt cộng, do một bọn ngu dốt nghĩ ra hoặc chế chữ nên không được dùng. Tôi không rõ hàng ngày khi giao tiếp với người khác thì họ ăn nói thế nào, nhưng trong các diễn đàn về tiếng Việt thời Cộng hòa, nhóm người này yêu cầu chỉ dùng những từ ngữ được sử dụng dưới thời Việt Nam Cộng hòa. Để xác định được từ đó có đúng là được dùng trong thời Việt Nam Cộng hòa hay không thì chỉ được dùng hai cuốn từ điển tiếng Việt xuất bản dưới thời Việt Nam Cộng hòa. Đó là Việt Nam từ điển của Hội Khai trí Tiến Đức, xuất bản năm 1954 và từ điển Hán-Việt của Nguyễn Văn Khôn, cũng xuất bản trước 1975.

Số từ mà nhóm người này tẩy chay khá nhiều. Tôi xin liệt kê một ít.

ngon_ngu_1

ngon_ngu_2

Tôi chỉ liệt kê một ít từ ngữ phổ biến. Chứ nếu kê đủ chắc ngồi hết nhiều đêm.

Khách quan mà nói, có những từ ngữ đang phổ biến trong báo chí, văn bản tiếng Việt trong nước đúng là rườm rà, màu mè, sai nghĩa, hoặc không phù hợp ngữ cảnh, hoặc khô khan, hình thức. Thí dụ như “đẩy mạnh”, “tăng cường” “nâng cao” “tiến lên một bước”… áp dụng trong hầu hết các báo cáo của nhà nước Việt Nam và các bản tin mang tính thông tấn.

Để giữ gìn vẻ đẹp của tiếng Việt, chắc chắn cần nhiều người dùng tiếng Việt ở khắp nơi cùng nhau soi chiếu và chọn lọc.

Nhưng việc tẩy chay những từ ngữ mới trước đây mình chưa từng dùng, chỉ vì ám thị “ghét cộng sản, ghét Tàu” dẫn đến phủ nhận toàn bộ những gì đang được sử dụng trong nước, mới sinh ra trong nước hoặc “có hơi hám Trung Cộng” thì thật cực đoan và trẻ con.

Tôi nhớ có lần ông Tưởng Năng Tiến phải viết một bài dài để giải thích ông không phải người Tàu. Ông cũng phải giải thích rằng ông yêu quý thành tựu văn học, âm nhạc, nghệ thuật … của Trung Hoa nhưng không ủng hộ thái độ của chính quyền Bắc Kinh trong việc xâm lấn biển đảo của Việt Nam…, tóm lại, ông không phải “Hán nô” như có người suy luận trên bút danh của ông rồi áp đặt như thế.

Việc có những người lớn tuổi nuối tiếc chế độ Việt Nam Cộng hòa xong cương quyết quay lưng với ngôn ngữ trong nước như trong bảng kê nêu trên cũng y chang như việc quy kết “Hán nô” với ông Tưởng Năng Tiến, chỉ vì cái bút danh của ông nghe không giống tên người Việt thuần.

Những vị này đòi hỏi chỉ được dùng những từ ngữ đã được dùng trong thời Việt Nam Cộng hòa. Nhưng có lẽ các vị cũng quên mất, ngay cả trong thời Việt Nam Cộng hòa thì tiếng Việt tự nó cũng đã sinh ra và mất đi vô vàn từ ngữ mới, lối nói mới.

Thí dụ cụm từ “Bỏ đi Tám”. Theo tác giả Nguyễn Thị Hậu, nó sinh ra ở khu vực Sài Gòn-Chợ Lớn vào thời Pháp thuộc, vào đầu thế kỷ 20. Tám là vị trí của người lao động bình dân trong hệ thống thứ bậc trong xã hội (chắc do một nhóm anh Hai nào đó trà dư tửu hậu mà thành). Ở đó quan quyền xếp thứ nhứt, dân công chức xếp thứ hai (thầy Hai thông ngôn, thầy Hai thơ ký…), thương gia Hoa kiều xếp thứ ba (chú Ba mại bản), dân giang hồ dao búa xếp thứ tư. Cũng là giang hồ nhưng thuộc loại đá cá lăn dưa hạ cấp hơn thì xếp thứ năm (thằng Năm móc túi giựt giỏ), thứ sáu là các thầy phú-lít (cảnh sát, police), mã tà. Thứ bảy là giới cho vay (anh Bảy Chà Và). Thứ tám, giới lao động bình dân đông đảo và nghèo nhứt. Thứ chín là giới “chị em”.

“Tám” nghèo và yếu tiếng nói nhứt trong giai tầng xã hội nên chuyện gì tranh chấp xảy ra thì Hai, Ba, Tư, Năm, Sáu, Bảy vẫn giành phần hơn. “Tám” thì lãnh đủ. Vậy nên phải ráng nhẫn nhịn, bỏ qua mà sống. “Bỏ qua đi Tám”! Hay tuyệt trần đời!

Ngoài ra, còn có “sức mấy”, “áp phe”, “âm binh”, “cô hồn các đảng”, “cà chớn chống xâm lăng” “cù lần ra khói lửa”, “cà na xí muội”, “cha chả”, “dân chơi Cầu ba cẳng”, “bận đồ khính” “một ly ông cụ”… Tiếng lóng bình dân còn có “bề hội đồng”(ăn hiếp tập thể, một nhóm người xúm nhau trị một người, dùng được trong rất nhiều hoàn cảnh, hay được dùng để chỉ vụ hiếp dâm tập thể)… Nhiều từ lắm, và nhiều từ hay lắm, thế nhưng bây giờ chính những người Việt lớn tuổi ở hải ngoại có còn dùng không?

Ngay ở trong nước, có những từ/lối nói chỉ cách đây một năm gần như thành câu cửa miệng, như “không phải dạng vừa đâu” “không phải đậu vừa rang”, thì sau một thời gian ngắn cũng đã “dạt trôi”, biến mất tăm mất tích, không ai còn nói nữa.

Ở miền Bắc Việt Nam, cách đây độ hai chục năm, muốn khen ai thật độc đáo, cá tính, giỏi giang xuất sắc trong lĩnh vực nào đó, giới trẻ trầm trồ “Nó tanh lắm”, “Khét mù”, “Khét lèn lẹt”, mặc dù người ấy rất thơm tho chứ chẳng tanh với khét gì cả.


Bây giờ, vẫn nội dung ấy thì gọi là “siêu” “chất” “chất vãi” “chất vãi chưởng”, hoặc mạnh mẽ hơn: “trất’ssssss”. “Trất” với dấu sở hữu cách tiếng Anh biến thể đằng sau chẳng có ý nghĩa gì cả, nhưng đó lại là sắc thái biểu thị rằng anh/cô/đứa ấy nó xuất sắc, độc đáo, cá tính đến tột đỉnh, “đỉnh của đỉnh”.

“Đỉnh của đỉnh” về ngữ nghĩa là không chính xác. Đã đỉnh thì chỉ có một chứ lấy đâu ra hai? Nhưng về sắc thái thì nó hết sức thú vị, vì biểu thị thái độ khâm phục, khen ngợi, công nhận… đến mức tột cùng, không thể chê bai một tí tẹo nào nữa.

Cái tươi mới, tung tẩy, biến hóa, sinh động của một sinh ngữ chính là ở những biến thể như vậy. Bởi vì ngoài ngữ nghĩa, nó còn thể hiện một cách tinh vi các cung bậc của thái độ và cảm xúc.

Khi trực tiếp gặp mặt, ngoài tiếng nói, còn có ánh mắt, nụ cười, ngôn ngữ hình thể bổ sung và làm rõ ý nghĩa của từ ngữ. Thí dụ cùng hai chữ “Thấy ghét” nhưng nói với cái nguýt mắt âu yếm, cái phát nhẹ vào vai, đôi môi hơi bĩu ra nũng nịu, chữ “ghét” kéo dài, âm điệu lên xuống trầm bổng… thì nội dung chính xác của nó lại là “Thương rồi á nha”. Còn nếu cộc lốc “Thấy ghét” kèm cái lườm hay cái nhìn trừng trừng khó chịu, thì phải xách quần chạy cho mau chớ xáp xáp vô là ăn tát.

Nhưng trong thời kỳ giao tiếp rất nhiều bằng comment và chat trên mạng xã hội, toàn chữ là chữ như bây giờ, thì phải làm sao để “Thấy ghét (thấy thương)” và “Thấy ghét (thấy ghét)” phân biệt ra, để người bên kia không hiểu lầm ý thực của mình?

Khi chỉ giao tiếp qua chữ viết, những “ý tại ngôn ngoại” biểu cảm qua ánh mắt, nụ cười, sự ngúng nguẩy của đôi vai…hay những điều thú vị như thế đều gần như mất hết. Do vậy mà các hãng sở hữu mạng xã hội phải luôn luôn vẽ ra thật nhiều icon (biểu tượng) sống động, để mà khi chữ viết thất bại, thì người ta gõ thêm một cái icon bổ sung hoặc thay thế. Thậm chí còn phải dùng cả những hình ảnh động để biểu cảm và chính xác hơn.

Thí dụ một cô gái chat với chàng trai “Anh giúp em nha” và “Anh giúp em nhaaaaaaa”. Nội dung y chang nhau, nhưng chữ “nha” kéo dài ở câu sau cũng y như khi cô kéo dài giọng nói với chàng trai vậy. Nó thể hiện sự thân mật, nài nỉ, nhõng nhẽo… mà câu trước không có, hoặc không thể hiện ra được.

Hay, hai ông đang cãi nhau kịch liệt trên mạng, mà một ông chốt: “Vâng, của nhà bác tất. Chào bác em ngược” thì không phải ông nọ đang nhường của cải cho ông kia, mà là bỏ cuộc, tuyệt vọng vì thấy bên kia bướng quá không thể thuyết phục được, hoặc không chấp nữa, cóc quan tâm nữa, “mày muốn nói gì cũng được, bố dí vào”.

Bởi vì ngôn ngữ là sinh ngữ, có sinh ra và mất đi, có chuyển đổi, lai ghép, có trào lưu và thoái trào. Những thay đổi này diễn ra nhanh chóng và mạnh mẽ ở cộng đồng có nhiều người cùng nói thứ tiếng đó. Nó có thể được sinh ra bất thần trong một câu nói, một cuộc trò chuyện giữa bất cứ ai, ở bất cứ đâu, từ đường phố đến “triều đình”, hay trong một tác phẩm được thai nghén nhiều năm. Chỉ cần nó giàu biểu cảm, mới lạ, hài hước hoặc thông minh, hoặc chỉ ngồ ngộ, vui tai… là đã đủ để phổ biến.

Với công cụ internet, mọi khoảng cách ngày càng thu ngắn lại. Một từ ngữ, lối nói vừa phát sinh trong một lũy tre bên này trái đất ngay lập tức được truyền đến một quán bar bên kia trái đất. Và nếu những người ở đó vẫn thấy nó giàu biểu cảm, ngồ ngộ, mới lạ, hay hay… thì họ dùng. Nếu sự thích thú đó ngắn hạn thì từ mới ấy, hoặc nghĩa mới của từ cũ ấy sẽ chết đi. Đời sống của ngôn ngữ cứ trôi chảy như vậy, nó phản ảnh sự phong phú của xã hội.

Chính vì thế mà phải tách bạch thái độ chính trị và những gì không liên quan đến nó. Dưới bất cứ thể chế nào, tiếng Việt vẫn cứ là tiếng Việt, nó được sinh ra từ người sử dụng, được phát triển lên nhờ những người sử dụng thông minh. Cộng sản vẫn có thể viết và nói duyên dáng, thu hút. Cộng hòa vẫn có thể viết và nói ngô nghê. Dưới bất cứ thể chế nào thì tiếng Việt vẫn có xấu, có đẹp, có trong sáng, có tục tằn, có trau chuốt và có thô thiển.

Gượng ép gán thái độ chính trị vào cho những từ ngữ mà trước giờ mình chưa từng thấy, như “từ ngữ của Việt cộng”, “từ  ngữ của Tàu cộng” là công việc rất trái tự nhiên, rất mệt mỏi và khiên cưỡng. Nó chỉ khiến người ta xơ cứng, quẩn quanh, già cỗi, lạc hậu và tự cô lập với cộng đồng.

Nếu thực tâm muốn giữ tiếng Việt cho trong sáng và giàu có, trước nhất phải giữ cái đầu cởi mở, chọn lọc, tinh tế và thông minh. Không thể bắt nó đóng băng, làm một cái xác sống, sống bằng hoài niệm cổ hủ. Đó là một việc vô nghĩa chẳng khác gì muốn cái cây tươi tốt nhưng lại chặt hết rễ của nó.

Nói ngọng’ được đem lên bàn nghị sự về giáo dục Việt Nam

Trong phiên thảo luận về Luật Giáo dục sửa đổi chiều 8/11, một đại biểu Quốc hội cho rằng tình trạng nói ngọng đang làm ảnh hưởng đến uy tín của ngành giáo dục và đề nghị sớm “giải quyết triệt để” vấn đề này để không “cản trở nhiều thứ”.

Một chuyên gia nghiên cứu về giáo dục nhận định với VOA rằng phát biểu của Đại biểu Trương Trọng Nghĩa (TPHCM) nhằm ám chỉ đến người đứng đầu ngành giáo dục, Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ, người gần đây được mệnh danh là “tư lệnh nói ngọng”.

“Bây giờ có những người lớn rồi, thậm chí bằng cấp cao rồi, mà vẫn viết sai chính tả. Viết sai là do nói ngọng mà viết sai”, báo Người Lao Động dẫn lời Đại biểu Trương Trọng Nghĩa góp ý tại Quốc hội.

Theo ông Nghĩa, ngành giáo dục Việt Nam lâu nay đã “bỏ bê việc học nói”, là kỹ năng mà theo ông là “rất quan trọng” vì nó ảnh hưởng đến viết và thuyết trình.

Đại biểu có tiếng “thẳng thắn” này cũng chia sẻ kinh nghiệm bản thân đã được chữa nói ngọng từ thủa nhỏ và đề nghị ngành giáo dục phải giải quyết tình trạng này từ lớp mẫu giáo và hoàn thành sau khi hết cấp 1.

Một khảo sát mới nhất của trường tiểu học thị trấn Phú Xuyên, Hà Nội, nơi được chọn thí điểm chương trình dạy phát âm chuẩn kể từ năm 2009, cho thấy có 25% giáo viên (12 người) và 30% học sinh (338 em) vẫn phát âm sai sau gần 10 năm được tập đọc trong mỗi tiết học để phát âm đúng hai phụ âm “l” và “n”.

Nhà giáo Phạm Toàn, một chuyên gia nghiên cứu về giáo dục ở Hà Nội, thừa nhận tình trạng nói ngọng là khá phổ biến trong dân chúng, nhưng ông cho rằng phát biểu của ông Nghĩa còn ám chỉ đến “tư lệnh ngành giáo dục” là Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ.

“Lẽ ra ông ấy phải là người soi sáng thì ông ấy lại thể hiện sự quê mùa nên người ta giễu ông ấy, chứ còn đối với toàn dân, việc sửa lỗi phát âm là việc lâu dài, phải từ từ”, nhà giáo Phạm Toàn nói với VOA.

Đây không phải là lần đầu tiên “nói ngọng” được đưa ra trên bàn nghị sự của Quốc hội. Tại kỳ trả lời chất vấn tại Quốc hội hồi tháng 6, vấn đề phát âm cũng đã được các đại biểu QH đặt ra cho ông Nhạ, bên cạnh những vấn đề lớn của ngành giáo dục như “chuẩn giả”, học tủ, học lệch…

Ông Phùng Xuân Nhạ “nổi tiếng” về tật nói ngọng. Một trong số những đoạn video lan truyền trên mạng xã hội ghi lại phần trả lời của ông trước chất vấn của đại biểu QH về vụ 24 cô giáo bị cán bộ điều đi “tiếp khách”, trong đó ông nói:

“Cán bộ địa phương cũng nà vì vui vẻ thôi, nhưng đôi khi nàm ảnh hưởng đến uy tín của nhà giáo. Cho nên đây nà một hoạt động rất nà đáng tiếc. Cho nên chúng tôi nghĩ rằng rút kinh nghiệm. Để xã hội nóng nên về vấn đề này thì rõ ràng nà không được. Linh hoạt phải trong chừng mực, chứ còn linh hoạt mà để xã hội nóng nên như thế thì đấy nà, nà không được”.

Tại kỳ họp Quốc hội lần này, ông Phùng Xuân Nhạ cũng là người nhận được số phiếu tín nhiệm thấp nhất trong số 48 quan chức cấp cao Việt Nam, với 137 phiếu tín nhiệm thấp (28,25%).

Trong phiên thảo luận chiếu 8/11, ngoài tình trạng “nói ngọng”, Đại biểu Trương Trọng Nghĩa cũng kiến nghị ngành giáo dục phải tăng cường bồi đắp đạo đức cho học sinh vì theo ông “đạo đức mà xuống cấp thì giáo dục thất bại”.

Ông Bộ Trưởng Phùng Văn Nhạ là người gốc Hoa nên được đảng nâng lên chức bộ trưởng bộ Giáo Dục mặc dầu ổng ất ngọng nghịu, luôn phấtâm chữ L thành N như tôi nàm cái lầy đồng bào nao động...