5 người Việt bị bạn hùn hạp gốc Mỹ gốc Hoa đầu độc cyanure rồi tự sát trên quê hương hải tặc để xóa nợ
16.07.2024 20:35
Thái Lan phát hiện nhóm người Việt chết trong khách sạn Thái Lan phát hiện 6 thi thể trong khách sạn ở thủ đô Bangkok, gồm 4 người Việt và mộ người Mỹ gốc Việt, nghi bị người Mỹ gốc Hoa kiều VN đầu độc.
Cảnh sát Thái Lan thông báo các sĩ quan phát hiện thi thể 6 công dân nước ngoài, gồm ba nam và ba nữ, tại một phòng ở tầng 5 của khách sạn Grand Hyatt Erawan ở khu Ratchaprasong, sau khi nhận được cuộc gọi từ nhân viên khách sạn vào khoảng 17h30 hôm nay. Bộ Ngoại giao Thái Lan cho biết nhóm nạn nhân gồm hai người Mỹ gốc Việt và 4 người Việt Nam, tuổi từ 37 đến 56.
Thủ tướng Thái Lan Srettha Thavisin đến hiện trường vào khoảng 21h và sau đó mở họp báo. Ông cho biết toàn bộ nạn nhân là khách nghỉ tại khách sạn, không có dấu hiệu ẩu đả, trộm cướp.
Theo ủy viên cảnh sát Bangkok Thiti Saengsawang, có 7 người check in 5 phòng tại tầng 5 và tầng 7 vào ngày 13 và 14/7. 4 phòng trên tầng 7 đã được lên lịch check out vào chiều 15/7.
Nhóm người đã gọi đồ ăn đến phòng ở tầng 5 vào 13h ngày 15/7 nhưng đồ ăn vẫn còn nguyên. Họ dường như đã uống trà và cà phê. Giới chức phát hiện "chất đáng ngờ" dạng bột trắng dưới đáy cốc. AP dẫn nguồn tin mô tả các nạn nhân bị sùi bọt mép.
Nhân viên của khách sạn đã đến phòng kiểm tra khi thấy khách trễ hẹn check out 24 giờ và thấy phòng bị khóa từ bên trong. Hành lý đã được đóng, để ở gần cửa. Trước khi tử vong, một nạn nhân đã cố gắng tiến về phía cửa nhưng bị ngã.
Cảnh sát xác định những người này đã chết khoảng 24 giờ trước khi được phát hiện. "Từ khám nghiệm sơ bộ tại hiện trường, có thể cho rằng họ đã bị đầu độc", Theeradej Thumsuthee, lãnh đạo bộ phận điều tra của Cục Cảnh sát Thủ đô, cho biết.
"Chúng ta cần tìm ra động cơ", Thiti nói. "Điều chúng tôi có thể xác định dựa theo những phát hiện ban đầu là họ không chết vì tự sát mà do bị người khác giết".
Thi thể sẽ được chuyển đến bệnh viện của cảnh sát để khám nghiệm. Truyền thông Thái Lan nêu nghi vấn họ bị đầu độc bằng xyanua.
Thiti cho biết cảnh sát đang truy tìm người Việt thứ bảy đã check in khách sạn. Trong khi đó, báo Thái Matichon nói rằng cảnh sát đang truy tìm hai người Việt với tư cách "nghi can".
Đại sứ Việt Nam tại Thái Lan Phạm Việt Hùng đã tới hiện trường. Ông cho biết cán bộ đại sứ quán đang làm việc với lực lượng chức năng sở tại để xác minh sự việc cũng như để thực hiện công tác bảo hộ công dân cần thiết.
Một số trang tin Thái Lan ban đầu nói rằng đã xảy ra nổ súng. Tuy nhiên, cảnh sát bác bỏ thông tin này.
"Thủ tướng ra lệnh cho tất cả các cơ quan khẩn trương hành động để tránh ảnh hưởng đến ngành du lịch", chính phủ Thái Lan ra tuyên bố.
Grand Hyatt Erawan là khách sạn 5 sao nổi tiếng ở Bangkok với 350 phòng. Ratchaprasong là khu mua sắm và giải trí nằm cạnh khu Siam, thu hút nhiều du khách.
Hơn 28 triệu du khách nước ngoài tới Thái Lan vào năm ngoái và chi hơn 33,7 tỷ USD. Chính phủ Thái Lan dự báo nước này sẽ đón 35 triệu lượt khách nước ngoài vào năm nay nhờ thời gian lưu trú dài hơn và chính sách miễn thị thực cho công dân một số quốc gia.
Du lịch là ngành mũi nhọn của Thái Lan, đặc biệt trong bối cảnh các lĩnh vực quan trọng khác của nền kinh tế nước này hồi phục chậm sau Covid-19.
Tuy nhiên, ngành du lịch Thái Lan gặp chấn động vào tháng 10/2023 bởi vụ xả súng tại trung tâm mua sắm Siam Paragon ở Bangkok, gần khách sạn Grand Hyatt Erawan, khiến hai người nước ngoài thiệt mạng.
Nguyễn Tiến (Theo Reuters, Bangkok Post, CNA, AP, AFP)
Thái Lan tìm thấy xyanua trong đồ ăn của nhóm người Việt
Khám nghiệm hiện trường cho thấy xyanua không chỉ được tẩm vào trà, mà còn có trong đồ ăn của nhóm người Việt chết trong khách sạn tại Bangkok.
Truyền thông Thái Lan hôm nay dẫn thông tin từ giới chức nước này cho biết các nhà điều tra đã khám nghiệm 8 valy của nhóm 6 người Việt tử vong trong khách sạn Grand Hyatt Erawan ở Bangkok, tìm thấy vật thể được bọc nilon và giấu trong một valy.
Cảnh sát xác định thứ này chứa chất độc xyanua và đang gấp rút điều tra nguồn gốc, nhằm xác định nó được mua tại Thái Lan hay mang đến từ nước khác.
"Nhóm điều tra cũng phát hiện một số đồ ăn trên bàn ở hiện trường cũng nhiễm xyanua", tờ Khaosod dẫn lời một quan chức cảnh sát cho hay. Hình ảnh hiện trường được công bố trước đó cho thấy vài đĩa đồ ăn đã được bóc màng bọc nilon, nhưng chưa rõ thứ nào trong số này chứa xyanua.
Cảnh sát Thái Lan nghi ngờ hai trong 6 người tử vong đã lên kế hoạch vụ đầu độc và họ đang duy trì phối hợp với Cục Điều tra Liên bang Mỹ (FBI). Giới chức đang chờ đợi kết quả khám nghiệm dấu vân tay trên ấm trà chứa xyanua để xác định người pha trà.
Cơ quan chức năng Thái Lan thừa nhận cần thêm thời gian để tìm ra người mang chất độc xyanua, vì có hàng loạt bằng chứng và người liên quan.
Cảnh sát Thái Lan chiều 16/7 phát hiện 6 thi thể người nước ngoài, gồm 4 người Việt Nam và hai người Mỹ gốc Việt, trong phòng 502 của khách sạn Grand Hyatt Erawan.
Tướng Teeradej Thamsuthee, lãnh đạo Đội Điều tra Thủ đô thuộc Lực lượng Cảnh sát Hoàng gia Thái Lan, cho biết cơ quan pháp y đã xác định có chất độc xyanua trong ấm trà và 6 tách uống trà trong phòng, dựa trên khám nghiệm hiện trường và máu của nhóm người tử vong.
Cảnh sát Thái Lan ban đầu nhận định nghi phạm là Sherine Chong, người gốc Việt mang quốc tịch Mỹ, một trong những người thiệt mạng tại hiện trường.
Trung tướng Noppasin Poolsawat, phó cảnh sát trưởng Bangkok, nói rằng vụ án xuất phát từ tranh chấp giữa bà Chong và Dang Hung Van, 55 tuổi, người Mỹ gốc Việt, với hai vợ chồng làm nghề kinh doanh trong nhóm. Hai vợ chồng đã cho bà Chong vay khoảng 278.000 USD để đầu tư vào dự án bệnh viện ở Nhật. Do dự án đình trệ, hai vợ chồng này nghi ngờ bà Chong đang tìm cách lừa đối tác.
VNTB – Nguyên nhân 6 người nước ngoài gồm người Việt và người Mỹ gốc Việt chết tại khách sạn ở Bangkok – Thái Lan.
(VNTB) – Cảnh sát Thái Lan cũng đã bước đầu xác định nghi phạm là bà Sherine Chong, 56 tuổi quốc tịch Mỹ gốc Việt.
Theo Báo Mới, cảnh sát Thái Lan cho biết nguyên nhân 6 người Việt và gốc Việt chết tại khách sạn Grand Hyatt Erawan do mâu thuẫn nợ nần. Một trong số 6 nạn nhân là người đã đầu độc 5 người còn lại rồi tự sát.
Danh sách 6 người gồm: Nguyễn Thị Phương Lan (47 tuổi, quốc tịch Việt Nam), Phạm Thanh Hồng (49 tuổi, quốc tịch Việt Nam), Trần Đình Phú (37 tuổi, quốc tịch Việt Nam), Nguyễn Thị Phương (46 tuổi, quốc tịch Việt Nam), Sherine Chong (56 tuổi, quốc tịch Mỹ), Đặng Văn Hùng (55 tuổi, quốc tịch Mỹ).
Cảnh sát Thái Lan cũng cho biết đã định vị được người thứ 7, được cho là đã đặt phòng chung cùng 6 nạn nhân, người này đã xuất cảnh khỏi Thái Lan vào ngày 10/7 và trở về Việt Nam.
Phía khách sạn cung cấp thông tin, khoảng 13h00 ngày 15/7 các nạn nhận đã đặt 6 suất ăn nhưng họ không ăn gì. Sau đó thấy khách trễ hẹn trả phòng hơn 24 giờ, một nhân viên khách sạn đã đến kiểm tra và là người đầu tiên phát hiện các thi thể. Được biết, có 2 thi thể trong phòng ngủ và 4 thi thể ở bên bàn ăn.
Chiều tối 16/7 Thủ tướng Thái Lan Srettha Thavisin đã trực tiếp đến hiện trường vụ án, nghe báo cáo tình hình đồng thời cơ quan chức năng có hành động khẩn cấp. Ông Srettha cho biết không có dấu hiệu cho thấy đây là một vụ tấn công hay cướp bóc, đồng thời cho biết sẽ tiến hành điều tra nguyên nhân để tránh gây ảnh hưởng tiêu cực đến du lịch Thái Lan.
Tại buổi họp báo diễn ra vào tối 16/7, Trung tướng Thiti Saengsawang, Tư lệnh Cảnh sát Thủ Đô Bangkok cho biết: “quá trình điều tra sơ bộ bước đầu xác nhận các nạn nhân đã bị sát hại chứ không phải tự sát. Có một nạn nhận xuất hiện vết thương trên mặt, nhưng có thể người này bị ngã va vào vật cứng và đây không phải là nguyên nhân dẫn đến cái chết”.
Truyền thông Thái Lan cho rằng 6 nạn nhân có thể tử vong do ngộ độc Xyanua. Cảnh sát Thái Lan phát hiện “chất lạ” ở đáy ly trong phòng.
Cảnh sát Thái Lan cũng đã bước đầu xác định nghi phạm là bà Sherine Chong, 56 tuổi quốc tịch Mỹ gốc Việt. Bà Chong đã xuất nhập cảnh Thái Lan 5 lần, lần nhập cảnh Thái Lan gần nhất là ngày 5/7/2024.
Căn phòng nơi xảy ra vụ án được khóa từ bên trong, không có dấu vết cậy cửa, cũng không có dấu vết lục lọi hay bạo lực. Cảnh sát đã tiến hành lấy lời khai của thân nhân nạn nhân nạn nhân vào đêm qua, theo đó được biết bà Sherine Chong đang nợ một khoảng tiền lớn.
Đối với người thứ 7 trong nhóm, Cục Di Trú đã tìm ra và phát hiện người này là chị gái của một trong số 6 nạn nhân. Cô có bằng chứng ngoại phạm vì đã xuất cảnh khỏi Thái Lan vào ngày 10/7/2024.
Theo tờ báo Khaosod, một nhân viên phục vụ của khách sạn được cho là tiếp xúc với bà Chong trước khi vụ việc việc xảy ra, thức ăn được mang đến khi bà Chong ở một mình trong phòng, bà Chong trông có vẻ căng thẳng và ít nói. Khi nhân viên khách sạn đề xuất giúp pha trà và cà phê, bà Chong đã từ chối và nói sẽ tự pha. Thêm vào đó, theo trích xuất camera và lời khai của nhân chứng, bước đầu xác định bà Chong là nghi phạm lớn nhất.
Phía Thái Lan đã thông báo cho Đại sứ quán Việt Nam và Đại sứ quán Hoa Kỳ đã được thông báo về sự việc. Trong thông báo sáng ngày 17/7/2024, Thủ tướng Thái Lan Srettha Thavisin xác nhận, Cục Điều tra Liên bang Mỹ (FBI) sẽ cử nhân viên đến Thái Lan để hỗ trợ điều tra, đặc biệt liên quan đến 2 nạn nhân quốc tịch Mỹ. Phía Thái Lan hết sức quan tâm vụ việc và sẽ công bố kết quả điều tra toàn diện sớm nhất có thể.
Pháp y Thái Lan công bố thủ đoạn nghi phạm đầu độc nhóm người Việt
Khám nghiệm cho thấy nghi phạm trộn chất độc xyanua vào lá trà, khiến nhóm người Việt uống phải và tử vong ở khách sạn tại Bangkok.
"Nhân viên khách sạn mang ấm trà, sữa và hai bình nước nóng đến phòng. Nghi phạm đã tẩm xyanua vào trà", tướng Trirong Phiwpaen, quan chức Cảnh sát Hoàng gia Thái Lan, cho biết trong cuộc họp báo tại Bangkok chiều nay tại Bệnh viện Chulalongkorn, khi đề cập thủ đoạn đầu độc trong vụ 6 người Việt tử vong tại khách sạn Grand Hyatt Erawan ở Bangkok.
Các chuyên gia pháp y cũng công bố hàng loạt mẫu vật được tìm thấy ở hiện trường, trong đó có túi trà nghi chứa lượng lớn chất độc xyanua. Lá trà được ủ thông thường sẽ có màu nâu nhạt, nhưng mẫu vật được tìm thấy ở hiện trường có màu tối sẫm, khiến các chuyên gia nhận định chúng đã bị tẩm lượng xyanua rất lớn.< iframe id="google_ads_iframe_/27973503/OV.Vnexpress/Desktop/Outstream/thegioi/thegioi.detail_0" name="google_ads_iframe_/27973503/OV.Vnexpress/Desktop/Outstream/thegioi/thegioi.detail_0" title="3rd party ad content" width="1" height="1" scrolling="no" marginwidth="0" marginheight="0" frameborder="0" aria-label="Advertisement" tabindex="0" allow="attribution-reporting" data-load-complete="true" data-google-container-id="4" style="text-align: center; margin: 0px; padding: 0px; box-sizing: border-box; text-rendering: optimizelegibility; border-width: 0px; border-style: initial; vertical-align: bottom;">< /iframe>
"Xyanua tan trong nước sẽ không có mùi vị, người uống hỗn hợp này hoàn toàn không biết gì. Chất độc có thể phát tác trong chưa đầy 5 phút, tùy thuộc liều lượng. Nó khiến hồng cầu không thể trao đổi oxy và dẫn đến tử vong. Miệng nạn nhân trúng độc xyanua thường có mùi hạnh nhân", tướng Phiwpaen nói.
Bác sĩ Chanchai Sittiphan, giám đốc Bệnh viện Chulalongkorn cho hay kết quả khám nghiệm cho thấy không có yếu tố nào khác khiến những người này tử vong ngoài xyanua.
Theo ông, nếu một người hấp thụ quá 3 mg xyanua trên một ml máu hoặc lượng lớn thông qua đường ăn uống, bệnh nhân sẽ đổ mồ hôi, co giật do thiếu oxy lên não, trước khi tử vong trong vài phút.
Tướng Noppasin Poolsawat, phó cảnh sát trưởng Bangkok, nêu hai giả thuyết về nguồn gốc số xyanua mà nghi phạm sử dụng. Người này có thể mang theo chất độc khi nhập cảnh, hoặc tìm mua ở Thái Lan qua nhiều kênh.
Cảnh sát đã mở cuộc điều tra về các vụ giao dịch xyanua gần đây, nhưng thừa nhận loại chất độc này không thể bị phát hiện khi qua cửa hải quan, và họ hiện chưa xác nhận được ai đã mang chúng vào Thái Lan. Thông tin này sẽ được công bố khi cuộc điều tra hoàn tất.
Cảnh sát Thái Lan chiều 16/7 phát hiện 6 thi thể người nước ngoài, gồm 4 người Việt Nam và hai người Mỹ gốc Việt, trong phòng 502 của khách sạn Grand Hyatt Erawan.
Tướng Teeradej Thamsuthee, lãnh đạo Đội Điều tra Thủ đô thuộc Lực lượng Cảnh sát Hoàng gia Thái Lan, cho biết cơ quan pháp y xác định có chất độc xyanua trong ấm trà và 6 tách uống trà trong phòng, dựa trên khám nghiệm hiện trường và máu của nhóm người tử vong.
Cảnh sát Thái Lan xác định nghi phạm là Sherine Chong, người gốc Việt mang quốc tịch Mỹ. Thi thể bà Chong cũng được tìm thấy tại hiện trường.
Trung tướng Noppasin Poolsawat, phó cảnh sát trưởng Bangkok, nói rằng vụ án xuất phát từ tranh chấp kinh doanh giữa bà Chong và Dang Hung Van, 55 tuổi, người Mỹ gốc Việt, với hai vợ chồng làm nghề kinh doanh trong nhóm.
Hai vợ chồng này đã cho bà Chong vay khoảng 10 triệu baht (278.000 USD) để đầu tư vào dự án bệnh viện ở Nhật. Do dự án đình trệ, hai vợ chồng này nghi ngờ bà Chong đang tìm cách lừa đối tác. "Đây là vụ án do mâu thuẫn cá nhân, không phải tội phạm xuyên biên giới", ông Noppasin nói.
Ngoài ra, các báo ở Thái Lan còn cho biết, ông Thắng còn nhờ em gái vợ cũ, người thứ bảy trong vụ việc, đi đổi một khoản tiền để trả cho ông Hung Dang Van, Việt kiều Mỹ, là một trong sáu nạn nhân.
Hiện chưa rõ mối liên hệ giữa ông Thắng và ông Hung Dang Van.
Người em gái bà Lan, một phụ nữ không được nêu danh tính, thoạt đầu bị Cảnh Sát Thái Lan đưa vào diện nghi can khi cô này đặt phòng ở khách sạn Grand Hyatt Erawan Bangkok nhưng không đến nhận phòng.
Cô này được ghi nhận nhập cảnh Thái Lan cùng lúc với chị ruột, nhưng ở một khách sạn khác.
Cảnh sát sau đó loại người phụ nữ khỏi diện nghi can vì dữ liệu của phi trường Suvarnabhumi cho thấy cô này bay trở về Đà Nẵng hôm 10 Tháng Bảy, tức là trước khi vụ đầu độc diễn ra.
Tuy vậy, nhà chức trách đang nhờ phía Việt Nam giúp làm rõ lý do khiến người phụ nữ về Việt Nam sớm hơn chị mình.
Nữ Việt kiều Mỹ là nghi can số một
Trong vụ đầu độc xyanua (cyanide) xảy ra vào chiều hôm 15 Tháng Bảy tại phòng 502 của khách sạn Grand Hyatt Erawan Bangkok, theo trang tin MGRonline, sở dĩ bà Sherine Chong bị Cảnh Sát Bangkok quy kết là nghi can số một là vì bà đứng tên nhận căn phòng này.
Ngay trước khi vụ việc xảy ra, bà Việt kiều Mỹ yêu cầu nhân viên nhà hàng của khách sạn đem đồ ăn và đồ uống lên phòng.
Khi bị cảnh sát thẩm vấn, nhân viên nhà hàng khai rằng người này nhận thấy bà Sherine Chong nhận đồ ăn “với vẻ mặt rất căng thẳng và có thái độ kiệm lời.”
Bà Sherine Chong yêu cầu nhân viên rời đi ngay lập tức để bà tự pha trà, trong lúc theo thông lệ, nhân viên sẽ là người làm việc này cho khách.
Theo dữ liệu camera an ninh của khách sạn, khoảng 6 phút sau khi trà và đồ ăn được dọn ra, bà Sherine Chong bị phát giác ở trong phòng 502 một mình.
Sau đó, năm nạn nhân từ các phòng khác của khách sạn lần lượt kéo vali vào căn phòng này.
Dữ liệu camera an ninh của Grand Hyatt Erawan Bangkok cho thấy từ thời điểm đó, không có bất kỳ ai ra vào phòng 502 cho đến khi thi thể của sáu người được phát giác vào tối hôm sau, lúc nhân viên khách sạn lên kiểm tra vì không thấy khách trả phòng.
Tiền bạc và nợ nần
Đề cập chi tiết vụ nợ nần, truyền thông Thái Lan cho biết, hai vợ chồng ông Phạm Hồng Thanh đã khởi kiện bà Sherine Chong tại Nhật với cáo buộc lừa đảo đầu tư.
Dự kiến một tòa án tại Nhật sẽ mở phiên tòa xử vụ này vào đầu Tháng Tám.
Nhưng giờ chót, vợ chồng ông Thanh không xin được visa (thị thực) Nhật nên mới có cuộc đàm phán về nợ nần ở Bangkok.
Một phần của lý do do hẹn gặp ở Bangkok là do vợ chồng ông Thanh muốn nhân tiện đi viếng chùa Wat Yannawa mà người Việt Nam hay gọi là chùa Thuyền, và tin rằng đây là một địa điểm tâm linh không thể bỏ lỡ trong chuyến du lịch Thái Lan.
Sau khi vụ án mạng xảy ra, con gái của vợ chồng ông Thanh, đang ở Sài Gòn, xác nhận với Cảnh Sát Bangkok rằng cha mẹ cô đi Thái Lan để “đòi một món nợ khó đòi.”
Một bản tin khác của báo Matichon cho biết, Cảnh Sát Thái Lan được phía Hoa Kỳ cho biết, bà Sherine Chong có tên trong một hồ sơ của Cảnh Sát San Francisco.
Theo đó, bà này bị cáo buộc dính vào một vụ lừa đảo visa định cư Mỹ hồi 10 năm trước, nhưng do không bị khởi tố nên không có tiền án.
Còn theo báo Khaosod, một số người Việt Nam bị cảnh sát thẩm vấn cho biết, bà Sherine Chong thường tự giới thiệu mình là nữ doanh nhân Mỹ đáng tin cậy trước khi mời gọi họ tham gia đầu tư vào các dự án ở ngoại quốc cùng bà.
Cảnh sát Thái Lan hiện chưa công bố nguồn gốc chất xyanua được sử dụng trong vụ đầu độc nêu trên.
Theo báo Khaosod hôm 18 Tháng Bảy, khi bị thẩm vấn, ông Phan Ngọc Vũ, 35 tuổi, hướng dẫn viên đến từ Việt Nam, cho biết mình quen biết bà Nguyễn Thị Phương Lan từ trước.
Trong chuyến đi Thái Lan lần này, bà Lan đã nhờ ông Vũ tìm mua “thuốc rắn,” được coi là “thần dược” chữa đau khớp thường được bán trong các tour trọn gói dành cho du khách Việt Nam, với giá 11,000 baht ($306).
Sau đó, ông Vũ nhờ một hướng dẫn viên có biệt danh “Tiger” mua loại thuốc này. Cảnh sát hiện đang truy tìm hướng dẫn viên “Tiger” và kiểm tra camera an ninh để xác minh xem liệu hai hướng dẫn viên có mua xyanua cho nghi can trong vụ này hay không.
Giới chức Cảnh Sát Bangkok cho biết, nếu có chứng cứ cho thấy bà Lan là người mua thuốc độc thì bà sẽ bị quy kết là một nghi can khác trong vụ án này.
Sau khi vụ đầu độc nêu trên xảy ra, nhà chức trách Thái Lan phát đi khuyến cáo, bất kỳ người nào sản xuất, nhập cảng, xuất cảng hoặc sở hữu chất xyanua thì sẽ bị kết án hai năm tù hoặc phạt tiền 200,000 baht ($5,564), hoặc cả hai hình phạt này.
Trong một diễn biến khác, theo tạp chí Tri Thức (ZNews) hôm 18 Tháng Bảy, ông Phạm Minh Chính, thủ tướng Việt Nam, yêu cầu Bộ Công An Việt Nam phối hợp điều tra, làm rõ cái chết của bốn người từ Việt Nam theo đề nghị của phía Thái Lan. (N.H.K) [kn]
6 người Việt chết trong khách sạn 5 sao ở thủ đô Bangkok
Có 6 người được phát hiện chết tại khách sạn 5 sao Grand Hyatt Erawan ở trung tâm thủ đô Bangkok vào hôm 16/7, bao gồm 4 người Việt Nam và 2 người gốc Việt. Họ gồm 3 nam và 3 nữ, chết do trúng độc.
Theo thông tin từ buổi họp báo có sự tham gia của Thủ tướng Thái Lan Srettha Thavisin vào tối 16/7, vào lúc 16 giờ cùng ngày, có 6 người được phát hiện đã chết trong một căn phòng của khách sạn Grand Hyatt Erawan.
Những người này được xác định gồm 4 người Việt Nam và 2 người Mỹ gốc Việt.
Những người chết gồm có 3 nam và 3 nữ.
Cảnh sát nghi ngờ họ đã tử vong trong 24 giờ qua, có thể là khoảng sau 13 giờ 55 ngày 15/7.
Cảnh sát tình nghi có thể còn một người Việt Nam thứ bảy nhưng chưa rõ tung tích người này.
Không có vết thương nào được tìm thấy trên cơ thể các nạn nhân.
Các nạn nhân sau đó được xác định là chết do trúng độc, theo báo Bangkok Post.
Truyền thông địa phương đưa tin có thể họ đã trúng độc xyanua.
Hai người mang quốc tịch Mỹ chết là Chong Sherine (56 tuổi) và Dang Van Hung (55 tuổi).
Bốn người Việt Nam chết là Nguyen Thi Phuong Lan (47 tuổi), Pham Thanh Hong (49 tuổi), Tran Dinh Phu (37 tuổi) và Nguyen Thi Phuong (46 tuổi).
Trong số này, chỉ có ông Dang Van Hung và ông Pham Thanh Hong là mới đến Thái Lan 1 lần. Số còn lại từng đến nhiều lần, có ông Tran Dinh Phu và bà Nguyen Thi Phuong Lan từng đến hơn 10 lần.
Trung tướng Thiti Saengswang của Cảnh sát Bangkok cho biết những người này đến khách sạn vào hai ngày 13 và 14/7.
Thông tin mà cảnh sát cung cấp cho thấy những người này nhập cảnh vào Thái Lan vào các thời điểm khác nhau: Bà Sherine Chong đến vào ngày 5/7; ông Dang Van Hung đến vào ngày 7/7; bà Nguyen Thi Phuong Lan đến vào ngày 4/7; ông Pham Thanh Hong, ông Tran Dinh Phu, bà Nguyen Thi Phuong đến vào ngày 12/7.
'Khả năng vụ việc được thực hiện từ bên trong phòng'
Trong cuộc họp báo vào buổi tối 16/7, cảnh sát Thái Lan cho biết không có dấu hiệu đánh nhau hoặc cướp.
Công tác khám nghiệm tử thi đang được tiến hành để xem những người này đã ăn gì.
Có tổng cộng sáu ly đồ uống, ở đáy mỗi ly đều có một ít cặn.
Trung tướng Thiti Saengswang của Cảnh sát Bangkok nói trong cuộc họp báo rằng có khả năng vụ việc đã được thực hiện từ bên trong phòng, ai đó đã trốn trong phòng.
Có 7 người đã đặt chỗ, 5 người đã nhận phòng và 6 thi thể đã được tìm thấy.
Năm người chết khớp với hồ sơ của khách sạn nhưng người thứ sáu thì không và người thứ bảy không được tìm thấy.
Có sáu ly rượu… và DNA lấy từ các loại đồ uống này trùng khớp với những người đã chết.
Trong phòng vệ sinh, người ta tìm thấy một ít trà cùng với nước tăng lực và mật ong.
Thức ăn không hề được đụng vào.
Một số khách dự kiến trả phòng chiều hôm qua đã thu dọn hành lý từ tầng 7 xuống phòng ở tầng 5.
Cảnh sát tin rằng những người này chết sau 13 giờ 55 chiều ngày hôm qua vì họ đã gọi dịch vụ phòng.
Cửa bị khóa từ bên trong khi dọn phòng tìm cách vào phòng. Cảnh sát đang tìm kiếm người thứ bảy và sẽ điều tra lý lịch của tất cả những vị khách đã chết.
Hành lý được tìm thấy trong phòng sẽ được khám xét và xem liệu có thể sử dụng làm bằng chứng hay không.
Tất cả các phòng đã được lên kế hoạch trả phòng vào ngày 15/7.
Các nhà điều tra đang xem xét từng bằng chứng trong phòng.
Không có vết thương đáng kể nào được tìm thấy trên thi thể. Các nhà điều tra tìm thấy một vết thương trên mặt một thi thể và nghi ngờ có thể do bị ngã.
Một cảnh sát nói trong điều kiện ẩn danh, bác bỏ các thông tin trước đó trên một số hãng tin của Thái Lan cho rằng 6 người này đã chết sau một vụ bắn súng.
"Không có dấu hiệu đây là vụ bắn súng," cảnh sát trả lời Reuters, mà không cung cấp thêm thông tin.
BBC News Tiếng Việt đã gọi điện cho Đại sứ quán Việt Nam tại Thái Lan, đại diện đại sứ quán cho biết đã được cảnh sát Lumpini, Bangkok thông tin và đã cho người tới hiện trường kiểm tra, nhưng nói rằng hiện không thể cung cấp thêm thông tin.
Thủ tướng Srettha Thavisin đã yêu cầu các cơ quan liên quan khẩn cấp xử lý vụ việc, không để ảnh hưởng đến hình ảnh quốc gia và ảnh hưởng đến tâm lý du khách.
Đài PBS Thái Lan trước đó đưa tin, trích dẫn Thiếu tướng Theeradej Thamsuthi, Trưởng phòng điều tra của Cảnh sát Thủ đô Bangkok, cho biết người thiệt mạng gồm 3 nam và 3 nữ.
Thiếu tướng Theeradej cho biết các cuộc điều tra ban đầu tại hiện trường cho thấy họ bị ngộ độc, với dấu vết cho thấy về việc đã uống trà hoặc cà phê. Tuy nhiên, cảnh sát đang xem xét một số nguyên nhân gây tử vong.
Cảnh sát đã phát hiện 6 thi thể trong khách sạn Grand Hyatt Erawan sau khi nhận được cuộc gọi từ nhân viên khách sạn vào khoảng 17 giờ 30 giờ Việt Nam, theo thông cáo từ cảnh sát.
Khách sạn Grand Hyatt Erawan có hơn 350 phòng và nằm trong một khu vực sầm uất, thu hút đông đảo du khách.
Chuyện Kể Hành Trình Biển Đông: Thảm Cảnh Vượt Biên
Chuyện kể hành trình Biển Đông: Thảm Cảnh Vượt Biên – Nguyễn Hà Tịnh
LTS: Trong suốt 8 thập niên kể từ khi thành lập vào năm 1930, CSVN đã gieo rắc không biết bao nhiêu tội ác trên quê hương Việt Nam. Có thể nói, trên từng tấc đất, ngọn cỏ, lá cây, hòn đá... của quê hương Việt Nam, dưới mỗi mái gia đình, trong mỗi thân phận người Việt, đều có những dấu ấn ghi lại những tội ác kinh tâm động phách do người cộng sản gây ra. Đặc biệt, sau khi ngang nhiên vi phạm Hiệp Định Geneva, xâm lăng và chiếm đóng Miền Nam kể từ 30 tháng 4 năm 1975, CSVN đã thực hiện hàng loạt chiến dịch đàn áp, khủng bố, thủ tiêu, bắt bớ... dã man trên khắp lãnh thổ Miền Nam, để một mặt ăn cướp trắng trợn tài sản của người dân, mặt khác nghiền nát mọi sức đề kháng, chống đối của những người yêu nước, khiến hàng triệu người dân Miền Nam phải vượt biển, vượt biên tìm tự do. Hậu quả, trong thời gian hơn hai thập niên kể từ sau 1975, hàng trăm ngàn người Việt, trong đó phần lớn là phụ nữ, trẻ em, ông bà già,... đã bị thảm tử trên biển cả, trong rừng sâu, ngoài hoang đảo.... sau khi phải trải qua những bi kịch kinh tâm động phách, muôn vạn phần đau đớn. Không những thế, ngay cả với những người sống sót, những bi kịch kinh tâm động phách đó vẫn còn mãi mãi tiếp tục ám ảnh, giầy vò, tra tấn họ, cho dù họ có sống trong bất cứ hoàn cảnh nào, có đi đến bất cứ chân trời góc biển nào... Để có thể tái tạo một trong muôn vàn tội ác của cộng sản Việt Nam đối với người vượt biên tìm tự do, Sàigòn Times trân trọng giới thiệu cùng quý độc giả những đoạn hồi ký trích trong "Chuyện Kể Hành Trình Biển Đông". Hy vọng, qua những dòng chữ được viết bằng máu và nước mắt của chính những người trong cuộc, qúy độc giả, với tấm lòng xót xa và những giọt nước mắt đau đớn của những người tỵ nạn cộng sản cùng cảnh ngộ, sẽ hiểu được, tội ác của chánh phạm CSVN đằng sau muôn ngàn bi kịch rùng rợn của người vượt biển. Qua đó, chúng ta sẽ thức ngộ được, lần đầu tiên trong lịch sử bốn ngàn năm của dân tộc VN, và có thể nói lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, tội ác của một chế độ đối với chính người dân của chế độ, như chế độ CSVN, quả thực đã vượt khỏi biên cương quốc gia, tung hoành trong mỗi gia đình, mỗi cuộc đời, để rồi tiếp tục tràn lan trên khắp bề mặt địa cầu...
*
Hy vọng, qua những dòng chữ được viết bằng máu và nước mắt của chính những người trong cuộc, qúy độc giả, với tấm lòng xót xa và những giọt nước mắt đau đớn của những người tỵ nạn cộng sản cùng cảnh ngộ, sẽ hiểu được, tội ác của chánh phạm CSVN đằng sau muôn ngàn bi kịch rùng rợn của người vượt biển.
VỤ THỨ NHẤT: 87 người bị giết
NHÂN CHỨNG : Bà Nguyễn Thị Thương 36 tuổi, tốt nghiệp Đại Học Hoa Kỳ, tu nghiệp tại Paris, Pháp. Trước 1975 Bà là Giáo sư Đại Học Bách Khoa Thủ Đức. Bà Thương vượt biển cùng chồng là Giáo sư Trần Quang Huy, phân khoa trưởng Văn Khoa Đại Học Saigon, cùng với Mẹ ruột, cậu, 2 em trai, 2 em dâu, 4 cháu gái và một con gái nhỏ 3 tuổi. Nhưng chỉ còn Bà, con gái nhỏ của bà, một người em trai của Bà và một em gái của chồng sống sót. Ghe mang số SS0646 IA dài 13 m 5, chở 107 người khởi hành từ Rạch Giá ngày 01 tháng 12 năm 1979. Ra khơi được 3 ngày, thuyền chạy về hướng Thái Lan, khi đã gần tới đất liền thì gặp bọn cướp biển vào ngày 03/12/1979. Hai tàu cướp ThaiLan cặp hai bên hông thuyền tị nạn, bọn cướp đã ùa sang với súng và dao. Vì ghe thuyền Việt Nam quá chật hẹp, bọn hải tặc đã lùa 27 người sang tàu của chúng cho dễ lục soát vàng bạc của cải. 80 người còn lại bị khám xét cướp hết vàng bạc, vật qúy. Sau đó bọn cướp buộc giây vào ghe Việt Nam vào đuôi tàu của chúng và kéo chạy. Chúng xả hết tốc lực, chạy lượn vòng qua lại làm ghe tị nạn nghiêng chìm như một trò chơi. Dân tị nạn la khóc, lạy van cho tới khi ghe chìm hẳn. Bọn cướp biển cắt giây nối và chạy bỏ mặc 80 người vùng vẫy tuyệt vọng, trong khi 27 người tị nạn trên tàu của chúng vật vã khóc ngất nhìn xuống biển chứng kiến người thân đang dãy dụa chết chìm. Bọn hải tặc chạy thẳng về đảo sào huyệt KO KRA của chúng mang theo 27 người mà chúng đã tách đem lên thuyền chúng trước đó. Nhưng gần tới đảo, chúng xô đẩy tất cả đàn ông xuống biển, buộc họ bơi vào đảo. 7 người dàn ông này đều bị chết đuối vì không đủ sức bơi hoặc không biết bơi để có thể vào đến bờ, trong số này có Giáo sư TRẦN QUANG HUY. Còn lại 20 người sống sót sau cùng đã bị bọn cướp đưa lên đảo và lập tức chúng lại lục soát, sờ nắn khắp thân thể để tìm kiếm vật quý con cất giấu trong người. Bà BTD (xin viết tắt, giấu tên) 26 tuổi có con 4 tuổi, bị dẫn ngay vào bụi hãm hiếp mặc dù Bà đang mệt lả không đứng dậy nổi vì đói khát, kinh hoàng. Sau đó, trong suốt 8 ngày liền bị giam giữ trên đảo, 20 thuyền nhân còn lại này đã bị quần thảo hành hạ bởi nhiều toán cướp biển khác nhau hàng ngày đổ bộ lên đảo. Các phụ nữ, cô gái phải chạy vào rừng hoặc leo lên hốc ẩn tránh. Nhưng vẫn không thoát khỏi tay bọn dâm tặc. Một lần Bà BTD quá mệt mỏi không còn sức chạy trốn nổi, đang nằm ngất ngư và được mọi người săn sóc thì bọn hải tặc lại ùa đến, đuổi tất cả mọi người chung quanh đi chỗ khác và 4 tên Thái man rợ luân phiên hãm hiếp tàn nhẫn ngay tại chỗ, khiến bà ta bị kiệt lực nằm im lìm không nhúc nhích được nữa. Đến ngày thứ 3 trên đảo, một tàu Thái, bên hông có ghi chữ POLICE số 513 tới đảo. Bọn cướp rút lui, chạy tàu ra xa. Chiếc tàu Cảnh Sát neo sát bờ biển, họ chỉ nhìn vô bờ nhưng không lên đảo. Những người tị nạn Việt Nam mừng rỡ tưởng được cứu thoát, một thanh niên tị nạn bơi ra mang theo một lá thư cầu cứu bằng tiếng Anh để gởi cho giới chức Cao Ủy Liên Hiệp Quốc. Nhưng chưa bơi tới nơi đã bị tàu Cảnh Sát Thái nổ súng bắn xuống biển cảnh cáo. Anh ta hoảng hốt bơi quay trở vào bờ. Sau đó mọi người lại đề cử một thiếu niên 15 tuổi liều mình bơi ra cầu cứu lần nữa. Cậu này đã được Cảnh Sát cho lên tàu, nhưng chỉ cho vài gói mì và đuổi xuống biển ngay. Cuối cùng tàu Cảnh Sát này bỏ đi. Sau này mới biết họ đã không hề báo tin vào đất liền. Ngay sau khi tàu Cảnh Sát bỏ đi bọn hải tặc lại lên đảo và tình trạng tồi tệ tiếp tục diễn ra. Đến ngày thứ năm, một tàu Hải Quân Thái Lan đi ngang qua đảo, nhóm người tị nạn chạy ra sát bờ vẫy gọi, làm hiệu và lần này chiếc tàu Hải Quân đã cho người lên đảo tiếp xúc và nhận bức thư nhờ chuyển về cho Cao Ủy Liên Hiệp Quốc tại Thái Lan. Ngày thứ tám, Ông SCHWEITZER Đại diện Liên Hiệp Quốc tại TháiLan ra đón họ vào đất liền. Không lâu sau đó Bà NGUYỄN THỊ THƯƠNG sinh thêm đứa con gái út trong trại tị nạn Song Khla và Bà sống tại đó với một đứa con gái 3 tuổi và người em trai của Bà và một em gái của Ông TRẦN QUANG HUY. Lúc bắt đầu rời Việt Nam Bà THƯƠNG đã có thai gần 9 tháng, chính nhờ vậy trong những ngày trên đảo KO KRA, Bà đã không bị hải tặc hãm hiếp. Bà NGUYỄN THỊ THƯƠNG kể lại câu chuyện trên rồi khóc lặng lẽ và nói: "Chồng tôi và tôi đã đoán trước những thảm cảnh có thể xảy ra trên biển. Nhưng chúng tôi vẫn chấp nhận ra đi vì chúng tôi đã nghĩ rằng, dù thế nào cũng ít tệ hại hơn là sống dưới chế độ Cộng sản. Nhưng những đau khổ tôi đang phải chịu đã vượt qua dự đoán của chúng tôi".
VỤ THỨ HAI: 70 thuyền nhân Việt nam tị nạn bị giết
NHÂN CHỨNG : Ông Vũ Duy Thái 44 tuổi, đi cùng vợ là Bà Đinh Thị Bằng 40 tuổi cùng 4 con và 2 cháu. Hiện chỉ còn mình Ông sống sót.
Ghe VNKG 0980 dài 14 m, bề ngang 2 m 2 chở 120 người khởi hành từ Rạch Giá ngày 29 tháng 12, 1979. Lúc 7 giờ sáng ngày 31/12/1979 gặp tàu hải tặc Tháilan. Tàu này sơn màu đỏ cam, mang số 128 ở đầu mũi, gồm 12 tên cướp võ trang súng dài và dao, búa, rìu. Tàu của chúng phóng tới húc vào làm nứt bể mũi ghe tị nạn. Bọn hải tặc nhảy qua và lập tức phá máy ghe làm thủng thêm vết nứt, nước bắt đầu tràn vào. Bọn chúng lục soát chụp giựt đồng hồ, nhẫn vàng v.v... trong lúc nước nước tràn vào ghe của người tị nạn càng nhiều hơn và bắt đầu bị chìm dần sau khoảng 1 tiếng đồng hồ. Khi ghe chìm hẳn, đàn bà, trẻ con la khóc hoảng hốt níu kéo lẫn nhau. Bọn cướp nhảy xuống biển và chỉ chọn lựa cứu các cô gái trẻ đẹp. Lúc đó tàu của bọn hải tặc neo đậu cách đó 50 m. Bọn cưới đã lôi kéo về tàu chúng 5 cô gái. Một số đàn ông và thiếu niên tị nạn biết bơi cũng lội về phía tàu của chúng và bám leo lên. Nhiều người bị xô đẩy xuống, nhưng vì chúng ít người nên cuối cùng còn 50 người sống sót leo lên được tàu của chúng kể cả 5 cô gái được chúng cứu trước đó. Những người này đã chứng kiến trước mắt 70 người còn lại bị chết chìm dần dần. Mọi người nhìn thấy những bàn tay chới với ngoi lên khỏi mặt biển rồi mất hút. Ông Vũ Duy Thái rời Việt Nam cùng vợ và 4 con, 2 cháu. Riêng Ông trong lúc hỗn loạn đã bơi bám vào tàu hải tặc và níu được vợ và một đứa con. Còn 3 đứa con khác và 2 cháu thì bị chết chìm. Tuy nhiên vợ và đứa con còn lại của Ông đã bị uống nước quá nhiều, khi kéo lên được thì không còn nhúc nhích. Ông hi vọng dùng phương pháp hô hấp nhân tạo sẽ cứu sống được, nhưng bọn hải tặc đã quăng vợ và con Ông xuống biển trở lại cho chết luôn. Anh Phạm Việt Chiêu, 26 tuổi là tài công kể lại chính anh và một số đàn ông khác còn khoẻ đã vớt được một số người chưa chắc đã chết hẳn mà có thể chỉ mới bị ngất xỉu nhưng bọn hải tặc đã bắt bỏ họ xuống biển lại. Sau đó tàu hải tặc trực chỉ đảo KO KRA và chúng giam giữ nạn nhân trên đảo. Ngày 1/1/1980, một chiếc tàu Hải quân Thái mang số 18 đến đảo vào ban đêm có võ trang vũ khí. Mọi người mừng rỡ tưởng được cứu thoát. Nhưng những người lính Hải quân chẳng chút thương tâm đoái hoài đến dân Việt tị nạn đang lâm cảnh khốn cùng, họ chỉ lo việc khám xét bằng cách bắt tất cả mọi người lột bỏ quần áo trần truồng kể cả đàn bà con gái rồi bỏ đi. Ngày 2/1/1980 một tàu Hải quân Thái khác mang số 17 lại tới đảo. Lính Thái lại ùa lên lục soát. Tất cả phụ nữ bị lột truồng không còn mảnh vải che thân công khai trước đám đông để bọn lính này sờ nắn khám xét như để tìm vũ khí kẻ nào có giấu diếm. Sau đó, chúng rút về tàu đậu gần bờ biển và đến trưa ngày 4/1/1980 mới bỏ đi. Trong thời gian hải quân Thái làm việc, bọn cướp vắng mặt nhưng ngay sau khi lính Thái vừa bỏ đi thì lập tức 4 chiếc tàu hải tặc tràn người lên đảo. Bọn cướp lại lục soát thêm nhiều lần nữa. Dĩ nhiên những nạn nhân VN khốn khổ chẳng còn gì để chúng cướp bốc nữa. Chúng luân phiên nhau hãm hiếp phụ nữ tại chỗ giữa ban ngày.Chúng chẳng cần tìm chỗ nào kín đáo để làm hành động thú tính này. Năm em gái Việt Nam: KH 15 tuổi, BT 17 tuổi, AH 12 tuổi, NY 11 tuổi và MT 15 tuổi bị chúng cưỡng hiếp tập thể ngay trước mắt mọi người. Lẽ ra, thảm kịch còn kéo dài chưa biết đến ngày nào chấm dứt, nếu không may mắn được vị cứu tinh là Ông SCHEITZER Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc xuất hiện kịp thời cứu giúp và kết thúc thảm ác trạng này. Ông đã đến đảo KRA trên một chiếc tàu Cảnh Sát Thái lan.
VỤ THỨ BA: Hải tặc Thái bắt gái vn bán vô ổ điếm
NHÂN CHỨNG : Nguyễn Thị Ánh Tuyết 17 tuổi đi cùng chị là Bà Nguyễn Thị Năm bà này đã bị hải tặc giết trước đó và Công Huyền Tôn Nữ Mỹ kiều 17 tuổi. Ghe không số, dài 10 m, chở 78 người, khởi hành tại NhaTrang ngày 08/12/1979. Ra khơi được 3 ngày thì hết nhiên liệu và thực phẩm, thuyền lênh đênh trên biển trong 10 ngày. Thời gian này có 12 trẻ em đã bị chết vì đói khát. Thi thể các em phải bỏ xuống biển. Đến ngày 21/12/1979 gặp 2 tàu hải tặc Tháilan. Bọn cướp buộc giây vào ghe VN với tàu của chúng, dùng vũ khí ép buộc tất cả mọi người qua tàu chúng để lục soát. Bà Nguyễn Thị Năm 33 tuổi đang mang thai 5 tháng, đi cùng chồng là Ông Lê Văn Tư và 3 đứa con 9 tuổi, 5 tuổi và 3 tuổi. Cả 3 đứa trẻ này đã chết trong thời gian 10 ngày ghe bị trôi lênh đênh trước đó. Bà NĂM quá đau khổ và mệt mỏi không còn đủ sức leo qua tàu hải tặc khi chúng ra lịnh. Bọn cướp đã xốc nách Bà lên nhưng Bà vẫn nằm im, một tên cướp liền dùng xẻng xúc cá đập túi bụi vào đầu Bà NĂM. Bà đã bị nứt sọ chết ngay tại chỗ và chúng xô xác Bà xuống biển. Mọi người kinh hoảng vội leo sang tàu hải tặc để cho chúng có chỗ trống lục soát, phá phách, xét quần áo, thân thể tìm đồ qúy. Sau đó tất cả đàn ông bị bắt nhốt vào hầm nước đá, đàn bà chúng cho ở trên sân tàu để sờ mó nghịch ngợm. Rồi chúng lùa thuyền nhân tị nạn qua trở lại chiếc ghe đã thủng nát. Khi đến ghe thì một người đàn ông đã chết vì đã bị giam giữ trong hầm nước đá lạnh cóng. Chiếc ghe tị nạn lại tiếp tục thả trôi lênh đênh trong nỗi tuyệt vọng cùng cực của mọi người. Ngày hôm sau, hai chiếc tàu hải tặc khác lại đuổi theo, tới gần vùng đảo KO KRA chúng lại lên ghe lục soát cướp bốc. Lần này 3 thiếu nữ xinh đẹp nhất bị chúng bắt đem đi. Con thuyền tị nạn lại tiếp tục trôi trong tình trạng vô cùng bi đát. Máy ghe bị hư hỏng, không thức ăn, nước uống và ghe thì đã ngập nước vì lúc đó tất cả đàn ông đã quá đói khát không còn đủ sức tát nước nữa. Không ai biết số phận 70 người còn lại trên chiếc ghe khốn cùng đó, lúc này ra sao" Hai chiếc tàu hải tặc chia nhau 3 cô gái VN. Hai cô N.T. Ánh Tuyết và Mỹ Kiều bị chiếc tàu của tên SAMSAC làm chủ bắt giữ. Còn chiết tàu kia bắt Cô LAN 17 tuổi mang đi mất hút, cho tới bây giờ không còn nghe tin tức gì về Cô ấy nữa. Hai cô ÁnhTuyết và Mỹ Kiều bị bọn SAMSAC mang vào đất liền, nhốt trong một khách sạn tại Songkhla. Chúng tách rời hai cô ở phòng riêng khác nhau. Ánh Tuyết bị một tên, được nghe gọi là BÍT canh chừng. Còn Mỹ Kiều thì ở chung phòng với tên SAMSAC. Ánh Tuyết kể lại là Cô đã la hét kêu ầm lên khi tên BÍT định cưỡng hiếp Cô, khiến mọi người ở các phòng chung quanh cùng khác sạn đa số là người Tây Phương đổ xô tới xem và tên BÍT đã bỏ chạy. Riêng tên SAMSAC ở phòng gần đó nghe tiếng ồn ào vội đem Mỹ Kiều đi giấu trong một khách sạn khác ở tỉnh Haadyai cách Songkhla hơn 30 Km. Khi cảnh sát đến điều tra, chính cô Ánh Tuyết đã dẫn CảnhSát đến bến tàu Songkhla, nơi có chiếc tàu của bọn SAMSAC vẫn còn đậu đó và các thủ phạm hải tặc đã bị bắt kể cả tên SAMSAC mà Cảnh sát đã tìm thấy hắn sau đó cùng với Cô Mỹ Kiều tại khách sạn nói trên. Tại Ty Cảnh Sát chúng đã khai là định bán hai Cô gái này cho một đường giây chuyên buôn gái cho các ổ điếm. Trên đây, chúng tôi chỉ đưa ra một vài vụ điển hình thuyền nhân Việt Nam bị thảm nạn hải tặc Tháilan hành hạ, giết chóc xảy ra trong tháng 12-1979 tại đảo KO KRA. Tưởng cần nhắc lại rằng tệ nạn hoành hành của hải tặc THÁI không phải vào thời gian này mới xuất hiện. Trong mấy năm trước 1979 khi ở Việt Nam khởi sự có làn sóng Thuyền Nhân VƯỢT BIỂN TÌM TỰ DO thì người Việt tị nạn của chúng ta đã trở thành những con mồi ngon cho bọn hải tặc THÁI. Báo chí trên thế giới cũng đã nhiều lần đề cập đến thảm kịch kinh hoàng mà "BOAT PEOPLE" đã phải chịu khổ nạn. Tuy nhiên kể từ khi các ngư phủ THÁI nhận thấy việc cướp bóc Thuyền Nhân sẽ làm cho họ trở nên giàu có mau chóng hơn là đánh cá thì số ngư dân Thái kiêm thêm nghề hải tặc đã ngày trở nên đông đảo, đưa tới hậu quả là người VN đi tị nạn bằng đường biển càng ngày càng bị rơi vào mạng lưới của bọn cướp biển dày đặc bủa vây trong khắp vùng Vịnh Thái lan.
NHÀ NƯỚC THÁI LAN MANG MÓN NỢ "HẢI TẶC" ĐẪM MÁU HÀNG CHỤC NGÀN THUYỀN NHÂN VIỆT NAM VÔ TỘI TRÊN VỊNH THÁI LAN - SIAM . (Phần 4 of 4)
14 Tháng Tám 20229:24 CH(Xem: 4265)
Đêm Chôn Dầu Vượt Biển . Tác giả: Châu Đình An
Đêm nay anh gánh dầu ra biển anh chôn Anh chôn, chôn hết cả những gì của yêu thương Anh chôn, chôn mối tình chúng mình Gửi lại em trăm nhớ ngàn thương Hò ơi! Hò ới! tạm biệt nước non. Đêm nay đêm tối trời anh bỏ quê hương Ra đi trên chiếc thuyền Hy vọng vượt trùng dương Em đâu đâu có ngờ đêm buồn Bỏ lại em cay đắng thật thương Hò ơi! Hò ới! tạm biệt nước non. Anh phải bỏ đi thắp lên ngọn lửa hy vọng Anh phải bỏ đi để em còn sống Anh phải rời xa mẹ Việt Nam đau đớn Quê mình rồi đây em có đợi chờ Anh tạm rời xa nước non mình yêu kiều Ôi người thân yêu người quen hàng xóm Mong vượt biển Đông mà lòng anh tan nát Núi mờ mờ xa ôi ngọn núi ở quê hương! Đêm nay anh gánh dầu ra biển anh đi Ra đi trên sóng cuộn thấy gì ở quê hương Xa xa ôi núi mờ xa dần Một giọt nước mắt khóc phận thân Hò ơi hò ới phận kẻ lưu vong Hó ơi hò ới phận kẻ lưu vong Đêm nay trên bản đồ có một thuyền ra đi Hiên ngang trên sóng gào tự do đón chào Xin chào tự do với nỗi niềm cay đắng Nhìn lại bên bờ nước non mình muối mặn Khóc nghẹn ngào !!! Hò ơi! Hò ới! tạm biệt nước non Hò ơi! Hò ới! tạm biệt nước non Hò ơi! Hò ới! tạm biệt nước non Hò ơi! Hò ới! tạm biệt nước non... (NgheQua YouTube) Vài Trang Bi Sử – Hướng Về Biển Đông: Hải Tặc Thái Lan sát hại dân tỵ nạn Việt Nam . NHẬT TIẾN Tôi vừa nhận được một lá thư gửi từ Thái Lan đề ngày 10-11-1982. Người viết là một thiếu nữ mới chỉ 20 tuổi. Cô rời Việt Nam trên một con thuyền với 5 anh chị em ruột. Tất cả anh chị em cô đều bị giết trên biển bởi hải tặc Thái Lan. Chỉ có một mình cô còn sống sót trong đám 19 thanh niên nam nữ trên thuyền. Sau đây là lời thuật của cô: “ Trên thuyền, gia đình cháu có 6 người, cháu là người ít tuổi nhất. Có tất cả 19 người trên thuyền – 13 thanh niên và 6 thiếu nữ. Chúng cháu ra khơi vào hôm 24 tháng 3, 1982, tới Vịnh Thái Lan hôm 4 tháng 4. Bây giờ chỉ còn có mỗi một mình cháu sống sót trong nỗi tủi nhục và phẫn uất nguyên nhân vì bọn hải tặc Thái Lan.” Con thuyền định mệnh này ra khơi mới chỉ một ngày đã bị tầu đánh cá của CSHCM chặn lại, lấy vàng rồi cho đi. Đến ngày 26 tháng 3, lần đầu tiên thuyền của cô bị hải tặc tấn công. Chúng cướp đồ đạc, hãm hiếp rồi cho đi. Nhưng thảm kịch hãi hùng này lại tàu diễn bởi một tầu cướp khác lại ập đến. Cô L.Q. tiếp tục kể : “ Chúng cột thuyền của chúng cháu ở phía sau rồi kéo đi. Rồi tên thuyền trưởng và đám thuỷ thuỷ đã giết 13 thanh niên bằng cách hết sức man rợ. Chúng trói chân, trói tay họ bằng dây cao su rồi xô họ xuống biển. Lúc ấy vào khoảng 7 giờ tối. Còn đám thiếu nữ thì vừa bị hãm hiếp vừa bị đánh đập. Sau đó chúng nhốt cả đám trên thuyền để hành hạ, rồi 9 ngày sau, chúng quăng từng người xuống biển, cứ khoảng 5 phút lại quăng một người. Các thiếu nữ kia vì không biết bơi nên chết đuối hết. Chỉ có cháu bơi được khoảng 20 phút thì được một con tầu vớt lên .” Trên đây chỉ là một trong muôn ngàn trường hợp đau thương được phơi bầy ra ánh sáng nhờ kẻ sống sót. Sau khi được giải cứu, cô L.Q được mang vào đất liền và tạm trú tại một gia đình người Thái trong vài tháng. Cuối cùng Cao Uỷ Tỵ Nạn LHQ đã đưa cô vào trại tỵ nạn Songkhla ngày 25 tháng 10-1982 ( Số Thẻ Tỵ Nạn trong trại của cô là SI # 12818). Hiện nay cô L.Q sống trong tình trạng khủng hoảng tinh thần sau những thảm kịch kinh hoàng trên biển cả. Đã thế, cô còn phải đối diện với một tình trạng khó khăn mới : Nhà nước Thái chỉ coi cô là một kẻ nhập cư bất hợp pháp và cô có thể sẽ bị tạm giam ở trại Sikiew (miền bắc Thái) để chờ nhà nước CSHCM xử lý. Cùng hoàn cảnh tương tự với cô là hai trường hợp khác: 1) Cô C.T.T. sinh năm 1962, nhập trại Songkhla hôm 22-10-1982, Số thẻ SI # 12806. 2) Cô P.N. sinh năm 1967, nhập trại Songkhla hôm 22-10-1982, Số thẻ SI # 12805. Cả hai người đều bị hải tặc Thái Lan bắt cóc vào đất liền, nhưng sau được Cao Uỷ LHQ giải cứu và đưa vào trại Songkhla. (Bạn đọc muốn viết thư an ủi những cô gái đau khổ này có thể viết thư, đề tên tắt của họ kèm ngày nhập trại (D.O.A) như đã ghi ở trên và gửi về địa chỉ P.O Box 3, Songkhla, Thailand). Mặc dù chính phủ Thái luôn luôn tranh né trách nhiệm của mình, nhưng sự thật là đã có nhiều thanh niên nam nữ VN đã bị hải tặc trói bằng dây cao su và xô xuống biển, cứ 5 phút một người, một sự tàn bạo vượt trên sức tưởng tượng của con người ở thế kỷ 20 này. Hỏi rằng đã có bao nhiêu trường hợp thảm sát tương tự đã xẩy ra nhưng vì không còn ai sống sót để kể lại như trường hợp của cô L.Q.? Theo thống kê của Cao Uỷ Tỵ nạn LHQ thì từ tháng 1 đến tháng 7 năm 1982 đã có 167 ghe thuyền mang 4339 thuyền nhân cập bờ Thái Lan. Trong 167 ghe thuyền này, đã có 111 ghe bị hải tặc đánh cướp, mỗi ghe trung bình từ 2 đến 3 lần trong tổng số 309 lần bị tấn công bao gồm cướp bóc của cải, hãm hiếp và bị giết rồi quăng xác xuống biển. Chỉ trong 6 tháng đầu năm 1982, số phụ nữ bị hãm hiếp lên tới 139 người và có tới 123 người trong số này đã bị giết và xô xuống biển vì kháng cự trước những hành vi man rợ của hải tặc. Ngoài ra còn có trên 200 trường hợp thiếu nữ bị bắt cóc mang đi và không còn ai nghe được tin tức gì về họ nữa. Số phận của những thanh thiếu nữ này, hoặc bị thảm sát trên biển như 18 người trên con thuyền của cô L.Q hoặc các cô bị đem bán vào đất liền cho những ổ điếm ô nhục – không được một ai biết đến. Đã thế, sự tàn bạo của hải tặc thì lại cứ mỗi ngày một gia tăng. Nước biển Đông đã nhuốm máu của nhiều đồng bào và đã trở thành mồ chôn của biết bao nhiêu thuyền nhân vô tội, những anh chị em ta, bạn bè ta, đồng bào ruột thịt của ta. Bên cạnh những thảm kịch trên biển Đông ấy, lại còn có những đời sống vô cùng thống khổ ở các trại tỵ nạn. Tin tức mới nhất mà chúng tôi vừa nhận được là từ bác sĩ Dương.. , 1 trong số 19 thuyền nhân được nhà nước Thái trả tự do sau khi bị kết tội tấn công ngư phủ Thái nhưng thực chất là họ chỉ tự vệ trước sự tấn công của hải tặc. Bác sĩ Dương.. hiện nay đã định cư ở Úc. Theo ông, thì những trại tỵ nạn ở Thái quả là “ Địa ngục trần gian”. Thí dụ: – Ở bệnh viện tâm thần Chon Buri gần Bangkok, có 6 bệnh nhân người VN vì họ đã bị trải qua những hoàn cảnh bị khủng bố tàn bạo và rồi khi nhập trại lại bị ngược đãi. – Một lần nổi cơn điên, anh Phù .. đã đập vỡ một cái chai và lấy mảnh chai rạch bụng định tự tử nhưng được cứu thoát kịp thời. Sau đó, anh đã dùng một con dao tự rạch một bên đùi và cứa rách thịt ở chân tay mình bằng dây kẽm gai như một sự vùng vẫy cố thoát khỏi cơn điên loạn. – Ở trại tỵ nạn Phananikhorn , Cao Ủy Tỵ Nạn đã ra lệnh cấm xài thuốc trừ sâu và thuốc diệt bọ sau khi đã có vài trường hợp tự vẫn bằng những thứ này, vào ban đêm. – Tại trại tù Aran ở Ara Pathet, nơi có một số “bộ nhân” Việt Nam bị giam giữ, người tù bị đối xử tàn bạo không khác gì vào thời Trung cổ: Đầu bị cạo trọc, bị nhốt trong hầm chứa phân và bị đánh đập cho đến khi ngất xỉu. Chỉ sau 3 tháng cư ngụ ở một nơi như thế, tất cả đều rất đau đớn và bị nội thương. Trên đây là một vài trường hợp hãi hùng cụ thể đã từng xẩy ra cho đồng bào của chúng ta tại Thái Lan, trên biển, trong nhà tù, trong trại tỵ nạn (nổi tiếng nhất là trại Sikiew nơi hiện có 7,000 người VN bị giam giữ, không quy chế tỵ nạn và trại NW82 – NorthWest 82- nơi có 2,000 người VN cũng trong hoàn cảnh tương tự. **** Tháng 12 là tháng kỷ niệm Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền. Thật mỉa mai cho bộ mặt Nhân Quyền khi nhìn về phương Đông với những cuộc đàn áp, khủng bố, giết hại bởi những bàn tay tàn bạo. Nhân Quyền là điều không thể dễ dãi hay kêu xin mà có. Muốn có Nhân Quyền, ta phải tranh đấu. Nhân danh những tấn thảm kịch đã và đang còn xẩy ra đối với người tỵ nạn, nhân danh những sự đau đớn, tủi nhục ở mức độ cao nhất mà đồng bào ở các trại Sikiew và NW82 đang phải chịu đựng, chúng ta phải tiếp tục đấu tranh để đòi hỏi thế giới văn minh phải tìm cách chấm dứt. Mong các anh chị em, bạn bè, đồng hương trên toàn thế giới, xin hãy làm điều gì thiết thực và cụ thể để giúp cho người tỵ nạn.
HoàngLongHải – Bèo giạt – Hải tặc Thái Lan. Tại sao tôi gọi “Hải Tặc Thái Lan”? Dễ hiểu thôi ! Bởi vì hầu như tất cả các vụ cướp biển, chận bắt tầu vượt biên, giết người, bắt đàn bà con gái, lục soát cướp đoạt tài sản người vượt biên, đánh đắm tầu, không cho ai sống còn để khai báo, v.v… là do ngư phủ Thái Lan cả. Ngư phủ Mãi Lai chỉ xàm xở với đàn bà con gái, cướp dầu, mì gói, lương thực, chứ không giết người, bắt người như ngư phủ Thái Lan. Bọn ngư phủ nầy tung hoành trong vịnh Thái Lan, không ai làm gì chúng được, vì chúng có dù che!!!??? Để ngăn chận tệ nạn nầy, Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hợp Quốc, mỗi năm chi ra một triệu đô la cho chính phủ Thái Lan để chính phủ nầy có thêm phương tiện hoạt động, nhưng từ khi có thêm tiền thì tệ nạn hải tặc không bớt đi mà lại gia tăng! Ấy là tại sao? Xin đọc hồi sau sẽ rõ. Cô cao ủy Daeng, như tôi giới thiệu trong phần trên, là người đặc trách về hải tặc của cao ủy tỵ nạn, là người rất có lương tâm, rất tận tâm, cũng phải sợ những cái dù của đám ngư phủ hải tặc Thái Lan. Việc truy tìm hải tặc Thái Lan không thuộc sở trường của cao ủy Daeng, nên cô không tìm được nhiều những tên hải tặc do các nạn nhân, thoát chết, tới được đảo, khai báo với cô. Thường lời khai các nạn nhân thì có: nhân dạng (mặt mũi, mầu da, tóc tai, tuổi tác,…). Nhận dạng người và nhận dạng tầu. Người thì nhỏ nhưng dễ nhận dạng vì khi chúng nhẩy qua tầu vượt biên, chúng không cần phải che dấu mặt, nghênh ngang cầm dao lớn hay mã tấu, đi tới đi lui trên ghe, lục soát, nạt nộ người nầy, đâm chém người kia, bắt con gái đàn bà mà không sợ ai cả. Còn ghe của chúng thì to lắm, gấp ba gấp bốn ghe vượt biên, nhưng người ta không rõ tầu gì. Bọn hải tặc lấy các tấm bạt nylon che mất số tầu. Người ta chỉ nhìn cách chúng nó trang trí ghe như thế nào, sơn mầu xanh mầu đỏ gì đó, vẽ hình những con vật gì đó để khai với cao ủy Daeng. Khi tôi tới đảo, anh Võ.. cựu đại úy Cảnh Sát, sau khi du học ở Mỹ về, hoạt động trong ngành Interpol của bộ Tư Lệnh Cảnh Sát Việt Nam Cộng Hòa, tới đảo trước tôi ít lâu, đã giúp việc cho cao ủy Daeng một thời gian. Ông Võ dùng những phương pháp chuyên môn trong ngành như phân tích nhân dạng, phân tích tầu, đối chiếu, v.v… và tìm ra được một số tầu, một số người để các cô gái nạn nhân nhận dạng người và tầu. Nhờ vậy, cô cao ủy Daeng dẫn các nạn nhân qua Bangkok để nhận mặt các tên hải tặc, một số bị tòa án Thái Lan xử tù. Từ đó, bọn hải tặc Thái Lan không vào bờ. Khi tầu của chúng đánh cá xong, trở vào bờ, gần tới nơi, chúng nhảy qua những tầu ra khơi để đi tiếp. Cảnh sát Thái Lan có biết tên tuổi chúng, cũng không làm gì được. Vả lại, chủ tầu đánh cá Thái Lan là “bọn” tướng tá quân đội và cảnh sát Thái Lan. Tôi dùng chữ “bọn” không phải sai đâu! Vì quyền lợi đánh cá, “bọn” tướng tá nầy bao che cho “bọn” hải tặc, ngăn chận và hăm dọa những người hoạt động trong công việc chống hải tặc, nên những người nầy sợ chúng, chẳng dám làm gì hơn. Chính cao ủy Daeng, người Thái Lan, biết chuyện đó, cũng sợ chúng. Mỗi lần đi Bangkok, khi cao ủy Daeng tới biên giới Mã Lai – Thái Lan, cô phải cải dạng, ăn mặc như một người đàn bà Thái Lan bình thường, để khỏi bị chúng nhận ra và ám hại. Kể từ khi Cảnh Sát Thái Lan bắt giữ và đưa một số ngư phủ hải tặc Thái Lan ra tòa, hành động của chúng càng tàn ác và hung tợn nhiều lắm. Thay vì cướp của, bắt đàn bà con gái, giết những ai chống lại chúng rồi thả cho ghe vượt biên đi. Bây giờ cướp ghe nào, sau khi lấy hết những gì chúng muốn, bắt những ai chúng muốn, giết những ai chúng muốn, còn lại, chúng đánh chìm ghe vượt biên, cho chết hết, ở ngoài biển khơi, để không còn ai sống sót mà khai báo với Cao Ủy Tị Nạn. Tàu chúng thì to, mới và rất tốt, ghe vượt biên thì nhỏ, cũ, mong manh. Chúng chỉ cần cho tàu của chúng đâm thẳng vào ghe vượt biên, ghe vở toang ra, chìm xuống biển, chẳng ai sống sót. Ghe của tôi mang số MC 483. Ghe trước tôi, không nhớ rõ, hình như MC 482 hay MC 481 khoảng 130 người vượt biên trên ghe, bị chết đuối trên biển hết trọi, sau khi bị ghe hải tặc Thái Lan đánh cướp, bắt đi mấy người con gái, đàn bà. Những người bị bắt nầy bị chúng đem về nhốt ở một hoang đảo nào đó, rồi trước sau cũng chết vì đói khát, vì bị chúng hảm hiếp liên miên, hoặc bị chúng giết, thả xuống biển, sau khi chúng đã chán chê. Khi tôi đang ở đảo, báo Đường Sống, báo của di dân hải ngoại viết về thuyền nhân, có kể chuyện một cô gái, hình như con của một đại úy phi công chế độ cũ, bị hải tặc bắt, đem về giam ở một hòn đảo hoang, sau có một tên hải tặc đã già đem cô về đất liền Thái Lan để làm vợ. Cô gái ấy trốn được, lên tận Bangkok, tố cáo với Cao Ủy Tỵ Nạn. Mấy tên hải tặc bị bắt, bị tòa xử tù. Cô gái thoát nạn được định cư ở Mỹ, và tuyên bố cô ta sẽ xây dựng lại đời cô, sẽ thành một bác sĩ. Tôi ước mong cô ta sẽ toại nguyện. Con người can đảm như thế, khí phách như thế, sẽ đạt được ý nguyện của mình thôi! Khi tôi còn làm việc ở phòng SB, một hôm, thấy có năm hoặc sáu người vượt biên mới tới, từ Văn Phòng Lực Lượng Đặc Nhiệm Mã Lai đưa sang. Nhìn họ, tôi nói với kỹ sư Nguyễn.., ngồi làm việc bên cạnh tôi: – “Ông xem, mấy người nầy trông ghê quá!” Da họ đen xạm, nhiều chỗ nứt nẻ, rướm máu. Họ đi không vững, có người phải có người đỡ. Ông Nguyễn ra đứng xem, hỏi chuyện với họ. Sau đó tôi được biết: Tầu họ khoàng 120 người, bị hải tặc Thái Lan tấn công. Sau khi bắt đi mấy cô gái, chúng cho tầu của chúng đâm vào ghe vượt biên. Ghe vỡ, phần đông chết đuối cả. Mấy người nầy ôm những tấm ván vỡ, trôi lềnh bềnh trên biển hai đêm hai ngày, may nhờ tầu đánh cá Mã Lai vớt được, đưa vào Terrenganu. Hai ngày hai đêm trên biển, vừa đói vừa khát, vừa đuối sức nhưng cũng cố bám vào tấm ván nên sống sót. Trên thì nắng nhiệt đới, dưới là nước biển, da họ bị sưng lên, rồi vở ra, nứt nẻ nên trông khiếp như vậy. Tôi nhớ ghe của họ được đặt tên là MC 513. Hôm sau, lại thêm ba người nữa được đưa tới, cũng tình trạng y như những người đến ngày hôm qua, đuối sức, da nứt nẻ, đi không vững. Hỏi ra, họ đi cùng ghe với những người ngày hôm qua, nhưng được vớt trễ hơn một ngày, có người vướng vào lưới đánh cá của ghe ngư phủ Mã Lai, được lưới kéo lên. Những người nầy được đặt tên là MC 514, tuy cùng ghe với những người trước. Ngư dân hải tặc Thái Lan không phải là những tên gan dạ. Chẳng qua vì người vượt biên sợ hãi quá, nhát gan quá, lại không ai chỉ huy, thống nhứt để chống lại nên chúng mới lộng hành như thế. Có một ghe vượt biên, phần đông là thanh niên Saigon, gan lắm. Khi ghe hải tặc Thái Lan đến gần, họ cùng đứng lên, gặp gì, thấy gì, họ cầm lên, cương quyết chống cự. Có người thì quăng nồi, quăng thùng sang tầu hải tặc, có người lăm cầm cây sào chờ bọn hải tặc nhảy qua tầu họ là họ sẽ tấn công. Thấy “khí thế” như vậy, bọn hải tặc Thái Lan quay mũi tầu chạy mất. Người Thái Lan theo đạo Phật, nhưng theo tôi thấy, họ không giống người Việt theo đạo Phật chút nào. Đạo Phật Việt Nam ở trong truyền thống dân tộc, ai chăm thì đi chùa thường, học kinh học kệ, nói ra thì đầy những kinh sách, Phật dạy thế nầy, thế kia. Ngoài ra, giới bình dân, người ta ít đi chùa hơn, mỗi năm vài ba lần trong những ngày vía, rồi thôi. Đạo Phât của họ là trong cách sống thường nhựt, ăn hiền ở lành, thương người nghèo khó, hoạn nạn, ăn mặn nhưng tránh sát sanh, … nên người ta ít cuồng tín. Người Thái Lan đi chùa rất thường, rất cung kính, cầu nguyện, xin xỏ, mong cầu, phù phép, và rất tin, phần đông cuồng tín. Họ tin Phật như vậy mà tại sao ác thế. Hay cứ làm ác rồi vào chùa cầu xin là xong. Họ cũng chẳng hiền hòa như người bình dân Việt Nam... Nhà nước Thái Lan đã im lặng ,đồng lõa với bọn Hải tặc Thái Lan khát máu , trả thù trên thân xác hàng chục ngàn Thuyền nhân Việt Nam vô tội . " Hải tặc Thái Lan mối hận muôn đời ,không thể nào quên !"
Xác Em Nay Ở Phương Nào . Tác giả: Trần Chí Phúc .
Chiều ra biển đứng ê chề Tìm trên ngọn sóng ngó về xác em Vớt rong rêu ngọn tóc mềm Quay về hướng gió tưởng em thơ dại Tìm trong bọt trắng thân người Nghẹn ngào dấu vết còn phơi lõa lồ Xác em nay ở phương nào Tấp sang đất Thái hay vào Nam Dương Có khi xác vượt trùng dương Trôi về Bắc Mỹ trách hờn người yêu
Biển lớn cuốn em đi Biển lớn cuốn em đi Rồi xa, rồi xa, rồi xa mãi
Biển ơi, trả cho ta ... Biển ơi, trả cho ta ... xác em yêu xác em yêu Chiều ra biển đứng ngậm ngùi Nhớ em và nhớ cả trời Việt Nam.
(NgheQua YouTube)
MIẾU THỜ 11 THIẾU NỮ VIỆT NAM BỊ HẢI TẶC THÁI LAN HÃM HẠI VÀ VỨT XÁC XUỐNG BIỂN (Lê Đại Lãng & Tha Sala)
Nỗi đau, vết thương của thuyền nhân Việt Nam sẽ không bao giờ lành. Một số những gia đình có người thân chết trên biển khơi hoặc chết trong trại tị nạn mà không được một nắm mồ. Nhưng đau khổ nhất là những người bị bắt cóc đi mà đến hôm nay gia đình cũng không biết nên để tang cho con cho vợ hay vẫn tiếp tục hy vọng tìm được họ. Có nhiều chuyện mà mỗi câu chuyện cho mình thấy những khía cạnh của thảm cảnh thuyền nhân Việt Nam. Thảm trạng Thuyền Nhân, trang lịch sử này sẽ không bao giờ có thể sang trang được và sẽ còn tồn tại mãi mãi như một giai đoạn đang thương tang tóc của Miền Nam Việt Nam sau ngày Quốc Nạn 30/4/1975
Một chiếc thuyền vượt biển sau 30/4/1975
Tha Sala (tiếng Thái: ท่าศาลา, phát âm là [tʰâː sǎː.lāː]) là một huyện (amphoe) của tỉnh Nakhon Si Thammarat, miền nam Thái Lan.
Bờ Tha Sala không phải là chốn nghỉ. Người Thái chê bờ biển này vì có nhiều thuyền đánh cá, bờ cát sạch nhưng đáy biển là lớp bùn dầy. Người nước ngoài qua đảo Ko Samui không xa lắm. Hai chục cái nhà sàn không một người khách nào khác đến thuê ở qua đêm. (Brian Vu)
Ngày hai mươi mốt tháng Chạp năm Kỷ Tỵ, xác mười một cô gái Việt Nam tuổi từ mười chín đến hai mươi ba, trôi dạt vào bờ biển Tha Sala, Thái Lan, trên người không một mảnh vải che thân.
Những người con gái Việt Nam, cổ bị trói chùm vào nhau, sau khi bị bọn hải tặc Thái Lan mất nhân tính hãm hiếp, đã bị đẩy xuống biển, và sau khi hơi thở còn thoi thóp sự sống, sau tột cùng của đau thương ô nhục, các cô đã bị kéo theo tàu hải tặc, thân thể chập chùng theo sóng nước từ đuôi tàu
Cho đến một lúc, cho đến một lúc linh hồn buốt lạnh rời khỏi xác đau thương, bọn hải tặc man rợ chặt giây, để xác người nhận chìm trong đại dương loang màu máu.
Những ngày chuẩn bị vào Xuân Canh Ngọ (1990), một mẩu tin rất ngắn trên báo Úc loan tin người ta tìm thấy xác mười một cô gái Việt Nam chết trần truồng trên bờ biển Tha Sala. Người ta đoán tuổi các cô gái từ mười chín đến hai mươi ba, cổ bị giây thừng trói chùm vào nhau.
Tôi đã viết một bài tưởng niệm để người bạn thân Trung Chính đọc trên đài phát thanh SBS với lời mở đầu như trên. Giọng đọc dù rất lão luyện, nhưng chợt nghẹn ngào của Chính, đã gửi đi toàn nước Úc một thông điệp buồn, đúng chương trình phát thanh đặc biệt vào giờ khắc giao thừa.
Hôm nay tôi đang ngồi trên bờ biển Tha Sala để viết những dòng này. Bao nhiêu năm dài đã trôi qua.
Trên bờ biển, dưới một táng cây dương liễu lớn, có dáng một chiếc thuyền dài gần mười thước đã rả mục, chỉ còn trơ ba lớp ván đáy thuyền. Người ta kê miếng ván thuyền này trên các cột thấp, phía trên lợp mái tranh, hai đầu mũi thuyền có hai cái am nhỏ, một cái hướng vào bờ, một cái hướng ra biển.
Lúc tôi đến thì đúng lúc một bà lão Thái đang cùng hai cậu nhỏ bưng đồ cúng gồm trái cây và xôi trắng phía trong bờ đi ra. Bà cụ sắp đồ cúng lên hai cái am, kê một cái bàn vuông nhỏ ngay phía mũi thuyền hướng biển, đặt mâm ngũ quả lên, thắp hương vái rồi đi vào.
Tôi không biết bà cúng ai vì bà không nói được, có lẽ miếng ván thuyền để trong chòi tranh là di tích một thuyền cá nào đó trôi vào bờ. Có lẽ có người chết trên thuyền nên người địa phương mới chưng thờ miếng ván một cách trang trọng dù mái che và cột chống tơi tả nhuộm một màu buồn bã và nghèo nàn.
Đột nhiên thấy rùng mình.
Bờ biển Tha Sala không phải là một nơi chốn nghỉ dưỡng. Người Thái chê bờ biển này vì có nhiều thuyền đánh cá, bờ cát sạch nhưng đáy biển là lớp bùn dầy. Người nước ngoài qua đảo Ko Samui không xa lắm. Hai chục cái nhà sàn không một người khách nào khác đến thuê ở qua đêm.
Con đường từ đường quốc lộ vào đây phải đi bộ trên hai cây số. Có lẽ những căn nhà sàn gỗ đỏ mái tôn dành cho người địa phương gần đâu đấy vì bên trong không có gì, ngoài một cái giường có treo mùng trắng và cái quạt bàn.
Một bờ biển rất buồn. Một làng chài lạc lõng trên bản đồ vùng duyên hải phía nam của Thái Lan, thuộc tỉnh Nakhon Si Thammarat.
Tôi ra dấu xin bà cụ một ít nhang. Cụ sai một đứa nhỏ chạy vào trong cầm ra ba nén nhang.
Có ai đó đang đốt nén hương dâng lên bàn thờ Tổ, xin thắp thêm nén hương lòng, cắm vào hư không cho thơm linh hồn của những người nằm xuống trên cuộc hải trình tuyệt vọng. Có ai đó đang đi lễ chùa đêm nay, hãy dừng lại thả vào không gian tiếng thở dài, để sưởi ấm những hương hồn cô đơn lạnh lẽo. Có ai đó đang ngập ngừng trước cổng thánh đường, hãy xin Chúa ban phát tình yêu cũng như niềm đau khổ đồng đều cho hết thảy nhân loại.
Chính đã đọc những lời trên ở đất Úc yên bình hai mươi hai năm trước, hướng về những linh hồn thảm tử Việt Nam trôi vào bờ Tha Sala.
Hôm nay tôi đưa giọng trầm buồn của Chính vang trên bờ Tha Sala vắng lặng. Hôm nay tôi cắm một nén hương trên bờ biển Tha Sala vắng lạnh giữa trời mai nắng cháy.
Chợt nghẹn ngào. Mặt biển xa phẳng như mặt nước hồ. Sóng nhẹ không thành tiếng.
Một vị sư ở Việt Nam khi biết ý định, đã chỉ cho tôi cách tịnh thủy và cầu nguyện.
Tôi ngồi sau nén hương, hướng ra biển. Những tàng dừa biển mọc sát đất xào xạc trong gió. Lá bàng vàng vỏ rơi rụng trên những vỏ sò đá cuội trắng.
Tôi cám ơn bà cụ đã cho tôi nén hương làm từ vùng đất của những tên cướp biển. Nhưng những người Thái mà tôi gặp hết sức hiền lành và tốt bụng. Mấy ngày qua tôi ở nhờ gia đình một bà bác sĩ trong khu vực dành cho bác sĩ và sinh viên y khoa bên trong khuôn viên nhà thương Maharat ở trung tâm tỉnh Nakhon Si Thammarat.
Bà chỉ cho tôi đến bờ Tha Sala chỉ cách trung tâm thành phố vài chục cây số. Nhưng khi tôi hỏi cách qua đảo Ko Kra thì bà chịu. Bà cả không biết có một hòn đảo có tên như thế nằm trong ranh giới tỉnh nhà.
Koh Kra, người Thái đọc là Cỏ Cả (Koh là đảo). Năm 1981, các nhà văn Nhật Tiến, Dương Phục, và Vũ Thanh Thủy đã viết một bản tường trình từ trại tị nạn Songkhla miền cực nam nước Thái về thảm trạng kinh hoàng của thuyền nhân trên đảo này. Bản tường trình hải tặc trong Vịnh Thái Lan của họ đã dóng lên tiếng kêu đau đớn, tiếng chuông hy vọng và tuyệt vọng nhất của thời đại chúng tôi.
Mười một cô gái chết thảm nơi đây thuộc thế hệ chúng tôi.
Họ sinh ra trong thời chiến, chết trong thời hậu chiến trên biển người và đất lạ.
Buổi trưa, tôi nửa nhắm nửa mở ngồi trên ghế dựa nhìn ra biển vắng. Căn nhà sàn tôi ở nằm sát mép nước, tận trong cùng của khuôn viên, chỉ cách cái chòi thờ miếng ván thuyền độ 20 thước.
Chợt thấy hai cô gái phục sức theo Hồi Giáo, khăn trùm kín đầu, đi dạo trên bờ biển. Một cô trùm khăn trắng, một cô khăn đỏ rực. Họ nắm tay nhau đứng nói chuyện trước chòi thờ ván thuyền.
Những người con gái Việt Nam đã chết trần truồng trên bờ biển này. Những người con gái đạo Hồi kín đáo từ đầu đến chân đứng nhởn nhơ trên bờ biển này.
Chờ gần chiều khi biển chỉ còn một màu vàng đỏ, tôi đi lần xuống nước tính lấy toàn cảnh từ biển trông vào bờ. Nhưng khi ngẩng đầu lên thì giật nẩy mình. Ngay nóc chòi thờ chiếc ván thuyến, có di ảnh mờ mờ của một cô gái. Có lẽ do nắng gió từ biển khơi lâu ngày nên hình hài trên ảnh đã mờ, nhưng trông kỹ vẫn thấy đúng là ảnh một cô gái.
Cả thân hình cô được bao phủ bởi một thân cây già, các táng cây mọc sau cô xòe những lá cây như hoa trắng trùm lên mái tóc dài thả xuống hai vai, cô quỳ hai gối trên một chiếc thuyền buồm đang vượt đại dương, miệng mỉm cười, đôi mắt đen to nhìn thẳng ra biển.
Tôi rùng mình trong thoáng giây. Tôi đã quan sát hai cái am nhỏ hồi sáng. Không có tượng Phật. Thì ra họ thờ cô gái này. (Sài Gòn trong tôi/ Lê Đại Lãng – Tha Sala)
Tôi chụp nhanh một tấm thì đúng lúc, trời đổ mưa lắc rắc, mây từ đâu kéo đến đen cả bầu trời. Rồi những hạt mưa to trút xuống cả biển khơi, rơi đồm độp trên mái lá mái tôn và bãi cát. Một tia chớp sáng lóe bầu trời. Gió nổi mạnh trong khi ngoài biển xa bầu trời vẫn vàng ươm ánh chiều tím mịn.
Tôi chạy vội vào căn nhà bán thức ăn. Lúc này không có gì hơn là một lon bia Thái. Một người đàn ông chừng bốn mươi tuổi mang bia ra, tiện thể ngồi xuống bên cạnh để hỏi chuyện.
Tôi hỏi tại sao có cái chòi thờ chiếc chuyền đã rã mục, lại có hai cái am. Có phải thờ cô gái có di ảnh hướng ra biển không.
Ông ta là con trai độc nhất của bà cụ hồi sáng. Ông trầm ngâm, nói tới đâu tôi lạnh mình tới đấy.
Ông kể rằng cách đây mười bảy năm, gia đình từ đảo Samui qua đây lập nghiệp. Khi đào cát để lập chòi thì thấy xác một chiếc thuyền vùi sâu trong cát. Ông nói trước đây có một số thuyền Việt Nam qua đây, nhưng không chắc có phải là thuyền của người Việt hay không.
Cả nhà khi đào thấy chiếc thuyền cũng không chú ý, chỉ để trơ ra đấy. Thế rồi một hôm, có một vị sư kêu mẹ ông đến bảo rằng hãy thờ chiếc thuyền ấy. Vị sư nói ông nằm mộng thấy một cô gái hình vóc như thế này thế kia, đến nhờ ông nói lại với gia đình là những người đi trên thuyền, trong đó có cô, đã chết thảm, nên xin được thờ phụng. Vị sư kêu người vẽ lại chân dung cô gái như ông thấy, rồi bảo bà cụ hãy thờ cô gái này nơi chỗ xác thuyền tìm thấy.
Bà cụ là người mộ đạo nên làm theo. Cả mười bảy năm nay, mỗi ngày bà cụ đều cúng hai mâm như thế cả.
Tôi xúc động bảo với người đàn ông, dù gia đình ông không chắc người chết trên thuyền kia là ai, nhưng tôi chắc là những thuyền nhân Việt Nam, vì mười bảy năm trước thuyền đã mục, nghĩa là chiếc thuyền đã vùi trong cát lâu lắm, có lẽ từ khoảng thời kỳ mà thuyền nhân Việt ồ ạt ra đi.
Người đàn ông lặng thinh, ngẫm nghĩ. Rồi ông vào trong nhà mời bà cụ ra. Bà bảo khi bà lập chỗ thờ thuyền cùng di ảnh cô gái, người trong làng cá này đều bảo bà điên. Nhưng bà không màng, bà bảo bà tin có Phật, nhất là vị sư không bao giờ đặt chuyện như thế.
Trời đã sụp tối, tiếng sóng biển rì rào. Tôi về lại căn nhà sàn của mình, phải đi ngang lại chiếc chòi thờ thuyền. Bất chợt, dù cả đời không sợ ma vì biết ma chê mình, người tôi vẫn lạnh xương sống.
Nhìn quanh không một bóng người. Tiếng sóng biển vỗ rì rào, tiếng chó tru trong đêm nghe rờn rợn lạnh người.
Nhưng rồi tôi cũng đứng lại hồi lâu trước di ảnh cô gái trong bóng tối nhá nhem. Có lẽ từ một tiếng gọi kêu nào đấy đã đưa chân tôi lưu lạc chốn này để thấy lại một thảm cảnh hiển bày.
Tha Sala, em ơi, đêm nay sóng cuồng điên ngoài biển, miếng ván thuyền rã mục trên bờ vắng.
Mưa đã ngưng nhưng cát vẫn ướt.
Tôi vào nhà lấy cái máy đem ra để cạnh cái chòi thờ, mở lại giọng đọc của Chính. Trong đêm vắng, giọng của người bạn tôi như tiếng kinh cầu chiêu niệm những oan hồn lẩn khuất đâu đây. Tiếng của anh chậm buồn như sóng biển ngoài kia đang thổn thức.
Đêm nay, đêm oai linh, đêm hồn thiêng sông núi, đêm của tổ tiên nghìn năm sống lại, đêm của những bước chân phiêu lãng trở về bên đốm lửa quê nhà.
Đêm đào huyệt chôn vùi tội ác và ích kỷ. Đêm của những tấm lòng nở hoa nhân ái.
Xin hãy bàn giao hiện tại tối tăm và phù phiếm, cho ngày mai rạng rỡ bài đồng ca thơm ngát tình người. Để mùa xuân được trải đều khắp chốn.
Để thiện tâm nở đầy trên lòng bàn tay, thúc giục những bước chân trần tiến về những cuộc hải trình tuyệt vọng, cho mùa xuân chia đều trên mỗi một sinh mệnh của đồng bào.
*
Tha Sala, hôm nay, tôi thắp nén hương này, nói vào hư không bài văn tế không thành tiếng. (Sài Gòn trong tôi/ Lê Đại Lãng – Tha Sala)
Ngu thì chết: Gạo Thái nhập vào Việt Nam có chất gây tê liệt thần kinh?
Việt Nam là thị trường tiêu thụ không ít gạo Thái Lan và sản phẩm này đang là một trong những lựa chọn của người dân Việt tại các thành phố lớn.
Vừa qua, Quỹ vì người tiêu dùng Thái Lan đã đưa ra lời cảnh báo về việc có nhiều mẫu gạo được kiểm nghiệm có tồn dư chất độc hóa học gây ảnh hưởng nghiêm trọng đối với người sử dụng.
Việt Nam là thị trường tiêu thụ không ít gạo Thái Lan và sản phẩm này đang là một trong những lựa chọn của người dân Việt tại các thành phố lớn. Thông tin này khiến người dân hết sức lo lắng, bởi vốn dĩ hàng ngày họ đã phải đối mặt với nguy cơ nhiễm chất độc hại từ rau, củ, quả phun thuốc kích thích, gia súc, gia cầm nuôi tăng trọng, nay đến gạo cũng nhiễm hóa chất độc hại khiến sự hoang mang càng tăng thêm.
Gạo chứa chất độc gây tê liệt thần kinh
Thông tin này được đưa ra sau khi Quỹ Vì người tiêu dùng Thái Lan đã thu thập ngẫu nhiên 46 mẫu của 36 nhãn hiệu gạo đóng gói tại các cửa hàng bán lẻ và siêu thị từ ngày 19-27.6. Các mẫu được xét nghiệm tại một cơ quan độc lập để kiểm tra dư lượng chất hóa học, bao gồm các chất methyl bromide, organophosphate, carbamate và thuốc diệt nấm. Kết quả thu được là có tới 34/46 mẫu được kiểm tra có phát hiện chất methyl bromide, trong đó 1 mẫu có dư lượng 67,4 mg/kg, vượt ngưỡng cho phép của Tổ chức Nông Lương Liên hợp quốc (FAO) 17,4%.
Theo PGS.TS Trịnh Văn Hùng (nguyên giảng viên Khoa công nghệ hóa học, ĐHQG Hà Nội) thì methyl bromide (etyl bromua) là hợp chất hữu cơ có công thức hóa học CH3Br. Đây là khí không màu, không mùi, không cháy, được sản xuất với quy mô công nghiệp và trong một số quá trình sinh học. Hóa chất này được một số quốc gia sử dụng làm thuốc bảo vệ thực vật cho đến đầu những năm 2000. Với khả năng khuếch tán và thẩm thấu tốt, Methyl Bromide thường được sử dụng để khử trùng, diệt nấm, mối và mọt.
Hóa chất Methyl bromide (CH3Br) ở thể khí không màu, không mùi vị, dễ tan trong nhiều dung môi hữu cơ. Methyl bromide khi chưa chuyển hóa đã có thể gây mê cơ thể sống, khi vào cơ thể chuyển hóa thành rượu Metylic sẽ gây độc, làm tê liệt hệ thần kinh. CH3Br rất độc, ở nồng độ thấp khó nhận biết, do vậy khi nhận biết thường phải cho thêm 2 - 3% Clopirin làm chất báo hiệu nguy hiểm vì chất này gây kích thích niêm mạc mắt.
Đối với việc sử dụng Methyl Bromide trong gạo, theo Tổ chức Nông Lương Liên hợp quốc (FAO), đây là hợp chất được phép sử dụng, nhưng với hàm lượng rất nhỏ chỉ có 50mg/1kg. Nếu lạm dụng chất này vượt quá mức cho phép sẽ gây ảnh hưởng không nhỏ đối với sức khỏe con người.
Dùng hóa chất giữ gạo không bị ẩm mốc
Thông tin về gạo Thái Lan nhiễm chất độc như trên dường như càng làm cho câu chuyện về chất lượng gạo trở nên căng thẳng. Ngay tại thị trường nội địa, vấn đề chất lượng gạo bị ảnh hưởng như thế nào do khâu bảo quản đã được đặt ra.
Gạo mốc có chứa một hệ nấm mốc có tính độc. Người ta đã phân lập được nhiều loài nấm mốc khác nhau trong gạo, nhưng có hai chủng hay gặp nhất là Aspergillus và Penicillium ... đây chính là tác nhân gây ung thư rất cao.
Theo TS vật lý Nguyễn Văn Khải, gạo có những đặc tính vật lý tự nhiên như dễ ẩm mốc, mất mùi thơm tự nhiên nếu để lâu trong không khí. Ngoài ra gạo còn có nguy cơ bị mối, mọt, chuột, gián, kiến, … xâm nhập, đục khoét làm hạt bị vỡ nham nhở. Nhất là trong điều kiện khí hậu của nước ta: nắng nóng mưa nhiều, nơi bán gạo của các tiểu thương thường ẩm thấp, đặc biệt ở miền bắc, về mùa nồm ẩm (tháng 2, tháng 3 âm lịch) thì sàn để gạo lúc nào cũng ẩm ướt, nếu không có cách bảo quản, số gạo chất đống trong kho chưa bán hết sẽ bị hỏng, mốc vàng, vón cục và hoặc bị chuột bọ, mối mọt ăn hết. vì thế, cá tiếu thương đã phải dùng đến các hóa chất để chống mối mọt, chống ẩm để đảm bảo gạo không xuống cấp.
Theo khảo sát, trên thị trường hiện có vô số các loại hóa chất khác nhau (cả ở dạng khô và dạng lỏng, dạng xịt, phun) được bày bán với mục đích giữ gạo luôn khô, tơi, tránh hoàn toàn mỗi lo bị ẩm mốc. theo quảng cáo của các chủ cửa hàng bán các hóa chất này thì khi được tẩm ướp bằng các loại hóa chất trên, gạo có thể để được bao lâu tùy thích mà vẫn đảm bảo không bị ẩm mốc vàng, vón cục. Ngoài hóa chất giữ khô thì các loại hóa chất tạo mùi hương cũng được bán rất nhiều với mục đích giúp gạo có mùi thơm hấp dẫn khách hàng.
PGS Trịnh Văn Hùng cho rằng nếu gạo có sử dụng hóa chất chống ẩm hay tạo mùi thì rất khó để xác định xem đó là loại hóa chất gì. Bởi trước khi được bán đến tay người mua thì hóa chất này cũng đã được trộn với nhau từ nhiều loại, nếu chỉ nói chung chung là xuất xứ từ Trung Quốc thì rất khó để tìm kiếm, xác định vì hiện nay có hàng ngàn loại bán hóa chất có nguồn gốc Trung Quốc được bán trên thị trường Việt Nam.
Tuy nhiên, để đạt được khả năng chống ẩm, mốc thì thành phần các loại hóa chất này đều có chứa phốt pho, lưu huỳnh (là những chất hút ẩm tốt). Các chất này nếu tồn tại lâu trong môi trường sẽ gây nhiễm độc đường hô hấp, tiếp xúc nhiều lần có thể gây ung thư, nhất là trong trường hợp dùng thuốc diệt chuột phun ngoài bao gạp thì độ độc hại càng tăng mạnh. Hiện nay, theo quy định của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, các chế phẩm diệt côn trùng dạng bình xịt của Trung Quốc dùng để phun ngoài bao gạo đều nằm trong danh mục hóa chất, chế phẩm cấm sử dụng trong gia dụng và lĩnh vực y tế.
Làm thế nào để chọn gạo sạch?
Tại Việt Nam, thông tin về gạo Thái Lan nhiễm độc đã làm dấy lên mối lo ngại do gạo Thái Lan được tiêu thụ khá mạnh (nhất là ở các thành phố lớn). Họ băn khoăn không biết gạo Thái ở Việt Nam có trùng với loại gạo nào được xét nghiệm ở Thái Lan như trên hay không.
Tại một cửa hàng gạo trên phố Vũ Thạnh (quận Đống Đa, Hà Nội), số lượng khách mua gạo Thái Lan chưa có biến động. chủ cửa hàng cho biết gạo tám Thái là một trong những mặt hàng bán chạy nhất (với mức giá khoảng 20.000 đồng/kg, cao hơn so với mức 14.000 – 15.000 đồng đối với loại gạo ngon của Việt Nam). Vị chủ cửa hàng này cũng cho biết chưa nghe thông tin gì về gạo Thái nhiễm độc.
Tại khu vực bán gạo của chợ Thành Công (quận Ba Đinh, Hà Nội), chị Ngân – một khách hàng thường xuyên ăn gạo tám Thái cho biết đã đọc được thông tin về gạo Thái nhiễm độc trên báo chí và khá hoang mang, không biết gạo Thái ở Việt Nam có cùng số phận như ở Thái Lan hay không. Để yên tâm chị chuyển sang dùng tạm gạo Bắc hương, tám Điện Biên … của Việt Nam. Những loại gạo này chất lượng tuy không được như tám Thái song chị cho rằng đó là lựa chọn tốt hơn trong lúc này.
Theo TS Vật lý Nguyễn Văn Khải thì các thông tin cơ bản về chỉ tiêu chất lượng của gạo như độ ẩm, tỷ lệ tấm, tỷ lệ tạp chất, dư lượng thuốc trừ sâu … hầu như không được người tiêu dùng biết đến. và nếu muốn biết thì cũng khó bởi họ không biết phải tìm ở đâu, trên vỏ bao bì sản phảm không có những thông tin như thế này. Vậy phải làm thế nào để chọn được một loại gạo sạch cho .
Lời khuyến cáo được TS Khải đưa ra là khi mua gạo cần quan sát kỹ, nhìn bằng mắt, sờ bằng tay, ngửi bằng mũi. Gạo tự nhiên không chất bảo quản bao giờ cũng có lớp cảm bên ngoài, sờ vào tay có dính lớp bột trắng. Gạo có hóa chất do bị hút hết chất ẩm nên trơn tuột, không còn lớp bám. Ngoài ra, gạo quá trắng (hoặc đục quá, vụn nát) cũng cần cảnh giác. Cần mua gạo có xuất xứ rõ ràng, trên bao bì ghi đầy đủ thông tin và nên mua gạo còn hạn sử dụng dài để đảm bảo không bị mốc, hỏng.
Gạo thơm Thái Lan hàng triệu người Việt hải ngoại nghiện gạo Thái đang ăn: Đã bị nhiễm độc?
Mấy ngày qua, báo chí hải ngoại và nhiều nguồn tin trên các phương tiện truyền thông khác loan báo về việc một loại gạo thơm của Thái Lan bị nhiễm độc. Sự việc sẽ rất nghiêm trọng nếu đúng sự thật, vì 3 triệu người Việt hải ngoại đã và đang ăn các loại gạo Thái Lan này.
Tờ Tin Viet News ra ngày 24/2/2005 có bài viết: COI CHỪNG ĂN GẠO THÁI LAN NHIỄM ĐỘC với nội dung như sau:
Hiện nay hầu hết các siêu thị Á Đông đều bày bán nhiều loại gạo xuất xứ từ Thái Lan - nhất là loại gạo hình Ông Địa, ghi là Gạo Nàng Hương Jasmine. Hiện nay loại gạo này đều bị nhiễm độc hoàn toàn.
Báo động từ gạo hương lài Thái Lan (Jasmine). Thật ra, gạo hương lài (gạo jasmine) Thái Lan chỉ là một trong các dấu vết đầu tiên của vụ ô nhiễm kim loại nặng Cadmium ở tỉnh Tak của nước này. 110.000 người ở Tak có nguy cơ ngộ độc Cadmium, song đây là một phát hiện muộn những... 2 năm. Chưa hết, phản ứng của Bộ Nông Nghiệp Thái Lan vào cuối tuần trước cũng bị xem là muộn thêm những 2 tháng! Tại sao vậy?
Gạo hương lài (Jasmine) là loại gạo “ngon nhất Thái Lan”. 5.700 người trong vùng được cảnh báo không dùng tiếp các loại cây lương thực mọc trên vùng đất sinh sống của họ, do các Cơ Quan chức năng đã xác định mức độ ô nhiễm nghiêm trọng của kim loại nặng Cadmium (Cd) trong khu vực này. Trong đó, có 500 người đang có nguy cơ bị loãng xương và tổn hại thận do ngộ độc Cadmium. Họ đều là cư dân ở lòng chảo Huai Mae Tao, huyện Mae Sot, tỉnh Tak (Thái Lan).
Trước đó, vào ngày 17/1/2004, báo The Nation đưa tin: Viện Quốc Tế Quản Lý Nước (IWMI) - một Tổ Chức Môi Trường Thế Giới đã cho biết khoảng 110.000 người ở tỉnh Tak (Thái Lan) có nguy cơ nhiễm phải những căn bệnh nguy hại do tích tụ Cadmium trong cơ thể với mức cao hơn tiêu chuẩn an toàn quốc tế.
Theo báo cáo năm 2002 của IWMI, kết quả khảo sát đất và tài nguyên nước tại Phra That Phadaeng và Mae Tao ở khu vực lòng chảo Huay Mae Tao (huyện Mae Sot, tỉnh Tak) đã cho thấy vùng này bị ô nhiễm Cadmium hết sức nặng nề.
Nghiên cứu 154 ruộng lúa ở 8 làng trong khu vực, IWMI cho biết đất bị nhiễm Cadmium cao hơn 94 lần so với tiêu chuẩn an toàn Quốc Tế. IWMI cũng nghiên cứu nồng độ Cadmium có trong gạo, tỏi và đậu nành sản xuất tại đây. Kết quả: Nhiễm Cadmium cao hơn mức tiêu chuẩn châu Âu cho phép. Cụ thể: Có 0,1-44 miligam Cadmium trong 1kg gạo, cao hơn tiêu chuẩn an toàn là 0,043 miligam/kg gạo. Trong tỏi và đậu nành, độ Cadmium cao hơn khoảng 16-126 lần tiêu chuẩn được phép. Vì vậy, IWMI đã dự báo nạn ô nhiễm Cadmium có thể ảnh hưởng đến 5.756 cư dân thuộc 8 ngôi làng trong khu lòng chảo này, và cả với 106.413 cư dân của huyện Mae Sot - những người tiêu thụ trực tiếp gạo từ các làng trên. Ngay sau đó, Cục Kiểm soát Ô nhiễm Thái Lan đã thành lập một Ủy Ban điều tra về vấn đề này...
Tới ngày 27/2/2004, Bộ Trưởng Bộ Tài Nguyên - Môi Trường Prapat Panyachatraksa đã công bố: Loại gạo Jasmine của Phra That Phadaeng ở huyện Mae Sot, tỉnh Tak - từng đoạt nhiều giải thưởng gạo Jasmine ngon nhất Thái Lan trong 2 năm 2002, 2003 - đã bị phát hiện có chứa Cadmium ở mức không thể chấp nhận được. Kể ra, khẳng định trên của Bộ Trưởng Prapat dù có “sát sạt” và thẳng thắn song đã muộn mất 2 năm, kể từ khi IWMI có kết luận về vụ này vào năm 2002.
Tuy nhiên ông phủ nhận việc gạo bị nhiễm độc và nói rằng ăn vào vẫn không bị ảnh hưởng. Dù chưa rõ đâu là nguồn gây ô nhiễm, song các giả thuyết đều tập trung vào hai công ty khai thác mỏ kẽm trong khu vực. Cả hai công ty này đã phủ nhận khả năng chính họ phải chịu trách nhiệm về vụ ô nhiễm, và đã thuê trường Đại Học Chulalongkorn tiến hành riêng một cuộc nghiên cứu về nguồn gây ô nhiễm này. Tòa đại sứ Thái Lan tại Hoa Kỳ cũng đã lên tiếng phủ nhận nguồn tin nói trên và cho rằng điều này không đúng sự thật và chưa có một nghiên cứu khoa học nào chứng minh những điều vừa kể.
Những khuyến cáo cho những ai thích ăn gạo Thái Lan với nhãn hiệu Nàng Hương Chợ Đào hay gạo Jasmine xuất phát từ Thái Lan có thể bị nhiễm độc, đã làm cho nhiều người lo ngại. Hiện nay hầu hết các siêu thị Á Đông đều bày bán rất nhiều loại gạo xuất xứ từ Thái Lan, nhất là loại gạo hình Ông Địa ghi là Gạo Nàng Hương Jasmine có tin là bị nhiễm độc chất kim loại nặng cadmium ở tỉnh Tak của nước Thái.
Còn báo Cali Today sau khi đăng lại ý liến khác nhau từ nhiều nguồn rồi đưa ra nhận định "đây là một vấn đề hết sức quan trọng vì hiện nay có gần 3 triệu người Việt hải ngoại trên khắp thế giới đã và đang ăn gạo Thái Lan dưới nhiều nhãn hiệu khác nhau".
PHẢN ỨNG TỪ PHÍA THÁI LAN
Sau khi các thông tin cho rằng gạo nàng hương của Thái Lan bị nhiễm độc Cadmium được đăng trên các báo, tòa lãnh sự Thái Lan đã gửi một lá thư cho báo chí Việt Nam tại quận Cam để xác định rằng gạo Thái Lan không hề nhiễm độc và bảo đảm là phẩm chất rất an toàn. Lá thư từ Trung Tâm Mậu Dịch Thái Lan phổ biến và gửi đi từ thành phố Los Angeles, nói rằng theo tin báo chí về tình hình nhiễm độc cadmium trong gạo Thái Lan trong những ngày vừa qua, thì nguồn tin nói trên dựa vào bản phúc trình từ Sở Kiểm Soát Ô Nhiễm của Bộ Tài Nguyên Thiên Nhiên và Môi Trường, chính phủ Hoàng Gia Thái vào tháng 2, trong đó cho thấy có nhiễm cadmium trong vùng trồng trọt của 2 làng ở Huyện Mae Sot, tỉnh Tak. Phúc trình cho thấy phần tử nhiễm cadmium đã vào ruộng lúa của 2 làng này qua nước thủy lợi, mà nguồn nước xuất phát trong vùng khoáng kẽm khai thác.
Vùng có vấn đề là các làng Pha Tat và Mae Tao Mai ở Huyện Mae Sot, Tỉnh Tak rộng 800 mẫu đất trồng với sản lượng 1.200 tấn một năm. Sản lượng trồng lúa trong khu vực quá nhỏ và chủ yếu để nông dân dùng cho gia đình, và không bao giờ đưa vào xuất khẩu. Giới chức Thái Lan và Bộ Tài Nguyên Thiên Nhiên và Môi Trường, Bộ Nông Nghiệp và Hợp Tác Xã và Sở Phát Triển Điền Địa đang nghiêm túc giải quyết vấn đề này. Ngay khi khám phá ra, giới chức Thái đã mua và tiêu hủy gạo sản xuất từ đây và hiện vẫn canh chừng an toàn y tế cho tất cả gạo xuất cảng từ Thái Lan. Cuối cùng, Trung Tâm Mậu Dịch Thái bảo đảm với khách hàng dùng gạo Thái rằng chính phủ Thái xem sức khỏe và an toàn người tiêu dùng như trách nhiệm quan trọng và dùng mọi phương tiện để giữ gìn phẩm chất gạo Thái trên thị trường thế giới.
Bên cạnh đó Trung Tâm Mậu Dịch Thái Lan (Thai Trade Center), một cơ quan chính phủ Thái đặt tại Los Angeles, gửi văn bản chính thức đề ngày 25/2/2005, cho biết tuy có trường hợp gạo trồng ở Thái Lan bị nhiễm cadmium, nhưng số gạo này “có khối lượng nhỏ và chỉ dùng cho cư dân trong vùng và chưa bao giờ được đưa vào thị trường xuất cảng”.
Trung Tâm Mậu Dịch Thái Lan cho biết thêm: “Nhà chức trách Thái Lan - Bộ Tài Nguyên Thiên Nhiên Và Môi Trường, Bộ Nông Nghiệp Và Hợp Tác Xã, và Sở Phát Triển Điền Địa... đã thu mua và tiêu hủy tất cả gạo sản xuất trong vùng”.
Theo báo Người Việt (tại California), Ông Alex Lee, Giám Đốc Tiếp Thị Công Ty Sun Lee, Inc. - là công ty nhập khẩu gạo “Ông Địa,” đã có lời giải thích về sự khác biệt giữa loại gạo bị nhiễm cadmium và loại gạo nhập từ Thái vào Hoa Kỳ:
“Gạo nhiễm cadmium là loại gạo trắng thường, trồng ở tỉnh Tak phía Tây Bắc Thái Lan sát biên giới Myanmar...Gạo jasmine của chúng tôi được nhập từ tỉnh khác, tỉnh Surin, nằm ở miền Đông Thái Lan, bên này rặng núi là Surin, bên kia là Việt Nam, hoàn toàn không bị nhiễm độc”.
Theo văn bản của Trung Tâm Mậu Dịch Thái Lan,gạo nhiễm cadmium được phát hiện trong vùng làng Pha Tat và Mae Tao Mai, huyện Mae Sot, tỉnh Tak và Chất cadmium đã vào những ruộng lúa ở hai xã trên theo dòng nước thủy lợi với nguồn xuất xứ từ một mỏ thiếc.
Theo báo Bangkok Post, “Chính Phủ Thái đã mua lại tất cả gạo từ quận Mae Sot thuộc tỉnh Tak” để tránh trường hợp gạo nhiễm độc lọt vào đường dây xuất khẩu.
Vấn đề gạo bị nhiễm chất độc kim loại đã xảy ra cách đây gần một năm tại tỉnh Tak, Thái Lan. Sau vụ ấy, chính phủ Thái Lan và các trường đại học đã thực hiện hàng loạt những điều tra, nghiên cứu, nhằm bảo đảm số gạo nhiễm độc không được xuất ra khỏi tỉnh và bảo đảm nguồn nước được tẩy sạch các chất độc kim loại. Theo lời một quan chức cao cấp của Bộ Môi Trường và Tài Nguyên Thiên Nhiên Thái Lan, dẫn theo bản tin của Bangkok Post ngày 9/4/2004 thì: “Bộ Môi Trường và Tài Nguyên Thiên Nhiên sẽ mua lại 130 tấn gạo bị nhiễm độc kim loại tại quận Mae Sot thuộc tỉnh Tak. Số gạo này sẽ bị mang đi tiêu hủy”.
MIẾU THỜ 11 THIẾU NỮ VIỆT NAM BỊ HẢI TẶC THÁI LAN HÃM HẠI VÀ VỨT XÁC XUỐNG BIỂN (Lê Đại Lãng & Tha Sala)
Tha Sala, đêm chôn vùi tội ác
Nỗi đau, vết thương của thuyền nhân Việt Nam sẽ không bao giờ lành. Một số những gia đình có người thân chết trên biển khơi hoặc chết trong trại tị nạn mà không được một nắm mồ. Nhưng đau khổ nhất là những người bị bắt cóc đi mà đến hôm nay gia đình cũng không biết nên để tang cho con cho vợ hay vẫn tiếp tục hy vọng tìm được họ. Có nhiều chuyện mà mỗi câu chuyện cho mình thấy những khía cạnh của thảm cảnh thuyền nhân Việt Nam. Thảm trạng Thuyền Nhân, trang lịch sử này sẽ không bao giờ có thể sang trang được và sẽ còn tồn tại mãi mãi như một giai đoạn đang thương tang tóc của Miền Nam Việt Nam sau ngày Quốc Nạn 30/4/1975
Một chiếc thuyền vượt biển sau 30/4/1975
Tha Sala (tiếng Thái: ท่าศาลา, phát âm là [tʰâː sǎː.lāː]) là một huyện (amphoe) của tỉnh Nakhon Si Thammarat, miền nam Thái Lan.
Bờ Tha Sala không phải là chốn nghỉ. Người Thái chê bờ biển này vì có nhiều thuyền đánh cá, bờ cát sạch nhưng đáy biển là lớp bùn dầy. Người nước ngoài qua đảo Ko Samui không xa lắm. Hai chục cái nhà sàn không một người khách nào khác đến thuê ở qua đêm. (Brian Vu)
Ngày hai mươi mốt tháng Chạp năm Kỷ Tỵ, xác mười một cô gái Việt Nam tuổi từ mười chín đến hai mươi ba, trôi dạt vào bờ biển Tha Sala, Thái Lan, trên người không một mảnh vải che thân.
Những người con gái Việt Nam, cổ bị trói chùm vào nhau, sau khi bị bọn hải tặc Thái Lan mất nhân tính hãm hiếp, đã bị đẩy xuống biển, và sau khi hơi thở còn thoi thóp sự sống, sau tột cùng của đau thương ô nhục, các cô đã bị kéo theo tàu hải tặc, thân thể chập chùng theo sóng nước từ đuôi tàu
Cho đến một lúc, cho đến một lúc linh hồn buốt lạnh rời khỏi xác đau thương, bọn hải tặc man rợ chặt giây, để xác người nhận chìm trong đại dương loang màu máu.
Những ngày chuẩn bị vào Xuân Canh Ngọ (1990), một mẩu tin rất ngắn trên báo Úc loan tin người ta tìm thấy xác mười một cô gái Việt Nam chết trần truồng trên bờ biển Tha Sala. Người ta đoán tuổi các cô gái từ mười chín đến hai mươi ba, cổ bị giây thừng trói chùm vào nhau.
Tôi đã viết một bài tưởng niệm để người bạn thân Trung Chính đọc trên đài phát thanh SBS với lời mở đầu như trên. Giọng đọc dù rất lão luyện, nhưng chợt nghẹn ngào của Chính, đã gửi đi toàn nước Úc một thông điệp buồn, đúng chương trình phát thanh đặc biệt vào giờ khắc giao thừa.
Hôm nay tôi đang ngồi trên bờ biển Tha Sala để viết những dòng này. Bao nhiêu năm dài đã trôi qua.
Trên bờ biển, dưới một táng cây dương liễu lớn, có dáng một chiếc thuyền dài gần mười thước đã rả mục, chỉ còn trơ ba lớp ván đáy thuyền. Người ta kê miếng ván thuyền này trên các cột thấp, phía trên lợp mái tranh, hai đầu mũi thuyền có hai cái am nhỏ, một cái hướng vào bờ, một cái hướng ra biển.
Lúc tôi đến thì đúng lúc một bà lão Thái đang cùng hai cậu nhỏ bưng đồ cúng gồm trái cây và xôi trắng phía trong bờ đi ra. Bà cụ sắp đồ cúng lên hai cái am, kê một cái bàn vuông nhỏ ngay phía mũi thuyền hướng biển, đặt mâm ngũ quả lên, thắp hương vái rồi đi vào.
Tôi không biết bà cúng ai vì bà không nói được, có lẽ miếng ván thuyền để trong chòi tranh là di tích một thuyền cá nào đó trôi vào bờ. Có lẽ có người chết trên thuyền nên người địa phương mới chưng thờ miếng ván một cách trang trọng dù mái che và cột chống tơi tả nhuộm một màu buồn bã và nghèo nàn.
Đột nhiên thấy rùng mình.
Bờ biển Tha Sala không phải là một nơi chốn nghỉ dưỡng. Người Thái chê bờ biển này vì có nhiều thuyền đánh cá, bờ cát sạch nhưng đáy biển là lớp bùn dầy. Người nước ngoài qua đảo Ko Samui không xa lắm. Hai chục cái nhà sàn không một người khách nào khác đến thuê ở qua đêm.
Con đường từ đường quốc lộ vào đây phải đi bộ trên hai cây số. Có lẽ những căn nhà sàn gỗ đỏ mái tôn dành cho người địa phương gần đâu đấy vì bên trong không có gì, ngoài một cái giường có treo mùng trắng và cái quạt bàn.
Một bờ biển rất buồn. Một làng chài lạc lõng trên bản đồ vùng duyên hải phía nam của Thái Lan, thuộc tỉnh Nakhon Si Thammarat.
Tôi ra dấu xin bà cụ một ít nhang. Cụ sai một đứa nhỏ chạy vào trong cầm ra ba nén nhang.
Có ai đó đang đốt nén hương dâng lên bàn thờ Tổ, xin thắp thêm nén hương lòng, cắm vào hư không cho thơm linh hồn của những người nằm xuống trên cuộc hải trình tuyệt vọng. Có ai đó đang đi lễ chùa đêm nay, hãy dừng lại thả vào không gian tiếng thở dài, để sưởi ấm những hương hồn cô đơn lạnh lẽo. Có ai đó đang ngập ngừng trước cổng thánh đường, hãy xin Chúa ban phát tình yêu cũng như niềm đau khổ đồng đều cho hết thảy nhân loại.
Chính đã đọc những lời trên ở đất Úc yên bình hai mươi hai năm trước, hướng về những linh hồn thảm tử Việt Nam trôi vào bờ Tha Sala.
Hôm nay tôi đưa giọng trầm buồn của Chính vang trên bờ Tha Sala vắng lặng. Hôm nay tôi cắm một nén hương trên bờ biển Tha Sala vắng lạnh giữa trời mai nắng cháy.
Chợt nghẹn ngào. Mặt biển xa phẳng như mặt nước hồ. Sóng nhẹ không thành tiếng.
Một vị sư ở Việt Nam khi biết ý định, đã chỉ cho tôi cách tịnh thủy và cầu nguyện.
Tôi ngồi sau nén hương, hướng ra biển. Những tàng dừa biển mọc sát đất xào xạc trong gió. Lá bàng vàng vỏ rơi rụng trên những vỏ sò đá cuội trắng.
Tôi cám ơn bà cụ đã cho tôi nén hương làm từ vùng đất của những tên cướp biển. Nhưng những người Thái mà tôi gặp hết sức hiền lành và tốt bụng. Mấy ngày qua tôi ở nhờ gia đình một bà bác sĩ trong khu vực dành cho bác sĩ và sinh viên y khoa bên trong khuôn viên nhà thương Maharat ở trung tâm tỉnh Nakhon Si Thammarat.
Bà chỉ cho tôi đến bờ Tha Sala chỉ cách trung tâm thành phố vài chục cây số. Nhưng khi tôi hỏi cách qua đảo Ko Kra thì bà chịu. Bà cả không biết có một hòn đảo có tên như thế nằm trong ranh giới tỉnh nhà.
Koh Kra, người Thái đọc là Cỏ Cả (Koh là đảo). Năm 1981, các nhà văn Nhật Tiến, Dương Phục, và Vũ Thanh Thủy đã viết một bản tường trình từ trại tị nạn Songkhla miền cực nam nước Thái về thảm trạng kinh hoàng của thuyền nhân trên đảo này. Bản tường trình hải tặc trong Vịnh Thái Lan của họ đã dóng lên tiếng kêu đau đớn, tiếng chuông hy vọng và tuyệt vọng nhất của thời đại chúng tôi.
Mười một cô gái chết thảm nơi đây thuộc thế hệ chúng tôi.
Họ sinh ra trong thời chiến, chết trong thời hậu chiến trên biển người và đất lạ.
Buổi trưa, tôi nửa nhắm nửa mở ngồi trên ghế dựa nhìn ra biển vắng. Căn nhà sàn tôi ở nằm sát mép nước, tận trong cùng của khuôn viên, chỉ cách cái chòi thờ miếng ván thuyền độ 20 thước.
Chợt thấy hai cô gái phục sức theo Hồi Giáo, khăn trùm kín đầu, đi dạo trên bờ biển. Một cô trùm khăn trắng, một cô khăn đỏ rực. Họ nắm tay nhau đứng nói chuyện trước chòi thờ ván thuyền.
Những người con gái Việt Nam đã chết trần truồng trên bờ biển này. Những người con gái đạo Hồi kín đáo từ đầu đến chân đứng nhởn nhơ trên bờ biển này.
Chờ gần chiều khi biển chỉ còn một màu vàng đỏ, tôi đi lần xuống nước tính lấy toàn cảnh từ biển trông vào bờ. Nhưng khi ngẩng đầu lên thì giật nẩy mình. Ngay nóc chòi thờ chiếc ván thuyến, có di ảnh mờ mờ của một cô gái. Có lẽ do nắng gió từ biển khơi lâu ngày nên hình hài trên ảnh đã mờ, nhưng trông kỹ vẫn thấy đúng là ảnh một cô gái.
Cả thân hình cô được bao phủ bởi một thân cây già, các táng cây mọc sau cô xòe những lá cây như hoa trắng trùm lên mái tóc dài thả xuống hai vai, cô quỳ hai gối trên một chiếc thuyền buồm đang vượt đại dương, miệng mỉm cười, đôi mắt đen to nhìn thẳng ra biển.
Tôi rùng mình trong thoáng giây. Tôi đã quan sát hai cái am nhỏ hồi sáng. Không có tượng Phật. Thì ra họ thờ cô gái này. (Sài Gòn trong tôi/ Lê Đại Lãng – Tha Sala)
Tôi chụp nhanh một tấm thì đúng lúc, trời đổ mưa lắc rắc, mây từ đâu kéo đến đen cả bầu trời. Rồi những hạt mưa to trút xuống cả biển khơi, rơi đồm độp trên mái lá mái tôn và bãi cát. Một tia chớp sáng lóe bầu trời. Gió nổi mạnh trong khi ngoài biển xa bầu trời vẫn vàng ươm ánh chiều tím mịn.
Tôi chạy vội vào căn nhà bán thức ăn. Lúc này không có gì hơn là một lon bia Thái. Một người đàn ông chừng bốn mươi tuổi mang bia ra, tiện thể ngồi xuống bên cạnh để hỏi chuyện.
Tôi hỏi tại sao có cái chòi thờ chiếc chuyền đã rã mục, lại có hai cái am. Có phải thờ cô gái có di ảnh hướng ra biển không.
Ông ta là con trai độc nhất của bà cụ hồi sáng. Ông trầm ngâm, nói tới đâu tôi lạnh mình tới đấy.
Ông kể rằng cách đây mười bảy năm, gia đình từ đảo Samui qua đây lập nghiệp. Khi đào cát để lập chòi thì thấy xác một chiếc thuyền vùi sâu trong cát. Ông nói trước đây có một số thuyền Việt Nam qua đây, nhưng không chắc có phải là thuyền của người Việt hay không.
Cả nhà khi đào thấy chiếc thuyền cũng không chú ý, chỉ để trơ ra đấy. Thế rồi một hôm, có một vị sư kêu mẹ ông đến bảo rằng hãy thờ chiếc thuyền ấy. Vị sư nói ông nằm mộng thấy một cô gái hình vóc như thế này thế kia, đến nhờ ông nói lại với gia đình là những người đi trên thuyền, trong đó có cô, đã chết thảm, nên xin được thờ phụng. Vị sư kêu người vẽ lại chân dung cô gái như ông thấy, rồi bảo bà cụ hãy thờ cô gái này nơi chỗ xác thuyền tìm thấy.
Bà cụ là người mộ đạo nên làm theo. Cả mười bảy năm nay, mỗi ngày bà cụ đều cúng hai mâm như thế cả.
Tôi xúc động bảo với người đàn ông, dù gia đình ông không chắc người chết trên thuyền kia là ai, nhưng tôi chắc là những thuyền nhân Việt Nam, vì mười bảy năm trước thuyền đã mục, nghĩa là chiếc thuyền đã vùi trong cát lâu lắm, có lẽ từ khoảng thời kỳ mà thuyền nhân Việt ồ ạt ra đi.
Người đàn ông lặng thinh, ngẫm nghĩ. Rồi ông vào trong nhà mời bà cụ ra. Bà bảo khi bà lập chỗ thờ thuyền cùng di ảnh cô gái, người trong làng cá này đều bảo bà điên. Nhưng bà không màng, bà bảo bà tin có Phật, nhất là vị sư không bao giờ đặt chuyện như thế.
Trời đã sụp tối, tiếng sóng biển rì rào. Tôi về lại căn nhà sàn của mình, phải đi ngang lại chiếc chòi thờ thuyền. Bất chợt, dù cả đời không sợ ma vì biết ma chê mình, người tôi vẫn lạnh xương sống.
Nhìn quanh không một bóng người. Tiếng sóng biển vỗ rì rào, tiếng chó tru trong đêm nghe rờn rợn lạnh người.
Nhưng rồi tôi cũng đứng lại hồi lâu trước di ảnh cô gái trong bóng tối nhá nhem. Có lẽ từ một tiếng gọi kêu nào đấy đã đưa chân tôi lưu lạc chốn này để thấy lại một thảm cảnh hiển bày.
Tha Sala, em ơi, đêm nay sóng cuồng điên ngoài biển, miếng ván thuyền rã mục trên bờ vắng.
Mưa đã ngưng nhưng cát vẫn ướt.
Tôi vào nhà lấy cái máy đem ra để cạnh cái chòi thờ, mở lại giọng đọc của Chính. Trong đêm vắng, giọng của người bạn tôi như tiếng kinh cầu chiêu niệm những oan hồn lẩn khuất đâu đây. Tiếng của anh chậm buồn như sóng biển ngoài kia đang thổn thức.
Đêm nay, đêm oai linh, đêm hồn thiêng sông núi, đêm của tổ tiên nghìn năm sống lại, đêm của những bước chân phiêu lãng trở về bên đốm lửa quê nhà.
Đêm đào huyệt chôn vùi tội ác và ích kỷ. Đêm của những tấm lòng nở hoa nhân ái.
Xin hãy bàn giao hiện tại tối tăm và phù phiếm, cho ngày mai rạng rỡ bài đồng ca thơm ngát tình người. Để mùa xuân được trải đều khắp chốn.
Để thiện tâm nở đầy trên lòng bàn tay, thúc giục những bước chân trần tiến về những cuộc hải trình tuyệt vọng, cho mùa xuân chia đều trên mỗi một sinh mệnh của đồng bào.
*
Tha Sala, hôm nay, tôi thắp nén hương này, nói vào hư không bài văn tế không thành tiếng.
(Sài Gòn trong tôi/ Lê Đại Lãng – Tha Sala)
Phải chăng có bí ẩn trong kết luận của cảnh sát Thái Lan để bảo vệ kỹ nghê du lịch, biêt đâu thủ phạm chính là người dịa phương?
VNTB – Có thật Sherine Chong (Chong không phải là họ người VN) hạ độc 5 người gốc Việt ở Thái Lan rồi tự tử?
Mỹ Tiến tổng hợp
(VNTB) – Vai trò của Trần Đình Phú và Đặng Văn Hùng trong vụ 6 Việt tử vong chưa được lý giải.
Theo cảnh sát Thái Lan công bố, bà Sherine Chong hiện đang nợ 10 triệu Bath (khoảng 7,5 tỷ VND) của hai vợ chồng ông Phạm Hồng Thanh (49 tuổi, quốc tịch Việt Nam) và Nguyễn Thị Phương (46 tuổi, quốc tịch Việt Nam) đầu tư xây bệnh viện ở Nhật. Vì khoảng nợ này mà bà Chong đã đầu độc 5 người rồi tự tử.
Tuy nhiên, lối lập luận này có rất nhiều lỗ hổng, vai trò của Trần Đình Phú và Đặng Văn Hùng chưa được lý giải. Và thuốc độc được bà Chong sử dụng có từ đâu? Để mua được thuốc độc tại Bangkok, nhất định phải là người thông thuộc Bangkok, biết được địa điểm có thể mua, và ít nhất phải có mối quan hệ mới có thể mua được chất độc thông qua chợ đen.
Theo tờ Khaosod cảnh sát Thái Lan cũng đã thẩm vấn hướng dẫn viên người Việt, được cho là có liên quan đến 6 nạn nhân. Người này cho biết, 1 trong 6 người là Nguyễn Thị Phương Lan đã nhờ mua “thuốc rắn” và đưa 11.000 baht kèm theo chỉ dẫn, sau đó người này nhờ một người trung gian khác là “Tiger” để lấy thuốc. Hiện tại vẫn chưa xác định được “thuốc rắn” này là gì. Phía cảnh sát đang truy lùng người trung gian cũng như người bán thuốc.
Nhưng theo như thông tin được công bố, bà Chong là người duy nhất ở trong phòng, khi nhận thức ăn, túi trà, sữa và nước sôi chứ không phải bà Lan. Và nếu bà Lan đã thông đồng với bà Chong, vậy tại sao bà Lan cũng chết do trúng độc trong khi người nợ tiền là bà Chong? Chẳng lẽ bà Lan cũng muốn tự tử?
Theo trích xuất camera, 6 người này đã tiến vào phòng 502 từ lúc 14h03 đến 14h17 ngày 15/7/2024 và không ai rời khỏi phòng cũng như không có ai khả nghi tiếp xúc căn phòng này. Nhưng nếu tẩm độc vào trà, có người uống ít, có người uống nhiều và có rất ít khả năng là 6 người cùng uống một lúc. Vậy khi phát độc, tại sao không có ai mở cửa để cầu cứu mà cả 6 người đều chết trong phòng khóa trái? Đặc biệt 1 trong 6 người có vết xước trên mặt, có thể do va vào vật cứng nào đó. Vậy vết thương này có trước khi người này tiến vào phòng 502 hay có trong lúc vùng vẫy thoát khỏi phòng?
Nạn nhân Trần Đình Phú vốn là một thợ trang điểm có tiếng. Theo thông tin người nhà nạn nhân cung cấp, lần này Phú được vợ của tỷ phú Dubai đặt lịch trang điểm, Phú hoàn toàn không quen biết 5 nạn nhân còn lại. Và Phú cũng ở phòng khác, hoàn toàn không dính dáng chuyện tiền bạc với Chong, tại sao Chong lại gọi Phú dọn đồ đạc đến phòng 502 rồi giết luôn Phú?
Để đầu tư xây một bệnh viện ở Nhật thì 7,5 tỷ VND là một con số nhỏ. Hơn nữa đối với người kinh doanh thì 7,5 tỷ VND cũng không phải là một con số lớn để đầu độc người khác rồi tự tử. Trong nhóm người này, ngoại trừ Trần Đình Phú thì 5 người còn lại đều là người kinh doanh, làm ăn lớn, con số 7,5 tỷ VND này đối với họ chỉ bằng một chiếc x, không đến mức phải nghĩ quẩn giết người rồi tự sát.
Với những lỗ hổng trên, cảnh sát Thái Lan nhanh chóng kết luận đây là một vụ con nợ giết chủ nợ rồi tự sát để nhanh chóng kết thúc vụ án, dẹp tan dư luận tránh ảnh hưởng đến du lịch của nước này. Cảnh sát Thái Lan cũng nhấn mạnh đây là một vụ án do mâu thuẫn cá nhân chứ không liên quan đến tội phạm xuyên quốc gia, nhằm trấn an khách du lịch quốc tế. Được biết Thái Lan phụ thuộc mạnh mẽ vào ngành du lịch, mỗi năm tổ chức hàng trăm sự kiện văn hóa, thể thao nhằm thu hút thêm nhiều khách du lịch quốc tế. Có thể cảnh sát Thái Lan nhanh chóng kết luận như vậy là để bảo vệ ngành công nghiệp du lịch của nước này.
Chuyện Kể Hành Trình Biển Đông: Con Tàu Định Mệnh & Hải Tặc
Chuyện kể hành trình Biển Đông: Con Tàu Định Mệnh & Hải Tặc – Trần Đông Nam
LTS: Trong suốt 8 thập niên kể từ khi thành lập vào năm 1930, CSVN đã gieo rắc không biết bao nhiêu tội ác trên quê hương Việt Nam. Có thể nói, trên từng tấc đất, ngọn cỏ, lá cây, hòn đá... của quê hương Việt Nam, dưới mỗi mái gia đình, trong mỗi thân phận người Việt, đều có những dấu ấn ghi lại những tội ác kinh tâm động phách do người cộng sản gây ra. Đặc biệt, sau khi ngang nhiên vi phạm Hiệp Định Geneva, xâm lăng và chiếm đóng Miền Nam kể từ 30 tháng 4 năm 1975, CSVN đã thực hiện hàng loạt chiến dịch đàn áp, khủng bố, thủ tiêu, bắt bớ... dã man trên khắp lãnh thổ Miền Nam, để một mặt ăn cướp trắng trợn tài sản của người dân, mặt khác nghiền nát mọi sức đề kháng, chống đối của những người yêu nước, khiến hàng triệu người dân Miền Nam phải vượt biển, vượt biên tìm tự do. Hậu quả, trong thời gian hơn hai thập niên kể từ sau 1975, hàng trăm ngàn người Việt, trong đó phần lớn là phụ nữ, trẻ em, ông bà già,... đã bị thảm tử trên biển cả, trong rừng sâu, ngoài hoang đảo.... sau khi phải trải qua những bi kịch kinh tâm động phách, muôn vạn phần đau đớn. Không những thế, ngay cả với những người sống sót, những bi kịch kinh tâm động phách đó vẫn còn mãi mãi tiếp tục ám ảnh, giầy vò, tra tấn họ, cho dù họ có sống trong bất cứ hoàn cảnh nào, có đi đến bất cứ chân trời góc biển nào... Để có thể tái tạo một trong muôn vàn tội ác của cộng sản Việt Nam đối với người vượt biên tìm tự do, Sàigòn Times trân trọng giới thiệu cùng quý độc giả những đoạn hồi ký trích trong "Chuyện Kể Hành Trình Biển Đông". Hy vọng, qua những dòng chữ được viết bằng máu và nước mắt của chính những người trong cuộc, qúy độc giả, với tấm lòng xót xa và những giọt nước mắt đau đớn của những người tỵ nạn cộng sản cùng cảnh ngộ, sẽ hiểu được, tội ác của chánh phạm CSVN đằng sau muôn ngàn bi kịch rùng rợn của người vượt biển. Qua đó, chúng ta sẽ thức ngộ được, lần đầu tiên trong lịch sử bốn ngàn năm của dân tộc VN, và có thể nói lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, tội ác của một chế độ đối với chính người dân của chế độ, như chế độ CSVN, quả thực đã vượt khỏi biên cương quốc gia, tung hoành trong mỗi gia đình, mỗi cuộc đời, để rồi tiếp tục tràn lan trên khắp bề mặt địa cầu...
*
Trần Đông Nam hiện là cư dân San Jose. Hưởng ứng lời kêu gọi viết về nước Mỹ của Việt Báo, ông đã viết bài đầu tiên kể về chuyến vượt biển, khởi hành từ Rạch Giá ngày 13 tháng 7 năm 1981. Sau hai lần cướp bóc, hãm hiếp, giết chóc, bọn hải tặc còn phá cho tàu chìm trước khi bỏ đi. Nhân chứng vụ hải tặc là kẻ sống sót duy nhất trong số 53 thuyền nhân trên tàu, nhờ bám được miếng ván trôi trên biển và được tàu dầu của Mỹ vớt.
*
Liếc nhìn quanh như sợ có công an rình rập, nhất là sợ người hàng xóm cạnh nhà thường hay để ý nhất cử nhất động của láng giềng. Đây là một lối kiểm soát dựa vào yếu tố "nhân dân làm chủ" để bắt đám dân bị trị phải tự cột chặt và xiềng xích nhau bằng tình báo an ninh kiểu "tam tam chế", nhà này kiểm soát nhà kia, nếu thấy có gì khả nghi liền báo cáo công an khu vực theo dõi bám sát điều tra. Sau cái liếc mắt e ngại, Vỹ cầm một cây vàng mỏng vánh, lén lút trao qua tay chị Bảy và ra dấu cất kỹ. Vỹ kề miệng định thổi tắt cây đèn dầu trên bàn bị gió tạt đùa ngọn lửa tỏa sáng lung linh. Chị Bảy đưa tay ngăn lại: - Đừng. Anh cứ để tự nhiên. Vừa nói chị Bảy Bét lén đưa cây vàng lá qua tay chồng, nháy mắt cho anh Bảy lòn đi ra cửa sau cho phi tang tông tích, phòng khi bất ngờ công an xô cửa xông vào nhà khám xét hộ khẩu. Vỹ nhắc anh chị Bảy, một lời giao phó định mệnh: - Tui có bao nhiêu tài sản chừng đó tin tưởng giao hết cho anh chị. Xin cố gắng lo cho. Vợ chồng tui và hai đứa con tui rất tội nghiệp. Có gì không xuôi chuyện chắc là tui tự vận. Nghe nói chị Vỹ động lòng khóc thút thít: - Đi lần này em tin chắc là được. Mình ăn hiền ở lành Trời Phật dòm xuống phù hộ cho mình. Anh đừng nói vậy không nên. Chị Bảy Bét ghé vô tai Vỹ nói nhỏ nhưng rất quả quyết: - Anh Tư đừng lo. Tụi tui làm ăn đàng hoàng mà! Đã mười mấy hai mươi chuyến, chuyến nào cũng trót lọt. Tụi tui qua mặt công an cái rụp. Chuyến đi thành công, qua bển làm ăn khấm khá, nhớ gửi về cho vợ chồng tui thêm, nhớ nghen. Nín lấy hơi, chị Bảy đánh đòn phé tố: - Thì anh chị Tư cứ nghĩ lại nếu sợ thì thôi, tôi về. Đi vượt biên ai dám ép. Anh Vỹ hoãng hốt rút lại lời nói nhát gan: - Nói là nói vậy thôi. Chớ tui nhất quyết đi thì đi. Ở với tụi này rồi cũng sẽ chết. Không chết trước thì cũng chết sau. Thà đi! Anh Vỹ còn lo xa: - Tui có cần đem thuốc uống say sóng gì không" Sao tui lo quá! Chị Bảy không dám cười lớn, nói trấn an: - Anh khéo lo xa thì thôi. Chủ tàu, tài công họ lo đầy đủ hết rồi. Họ còn lo hơn anh nữa đó. Chuyến này đánh chuyến chót tài công đem vợ con đi theo luôn. Anh Tư cứ yên chí lớn. Chiều chập tối đèn điện thành phố mới vừa lóe ánh sáng vàng vọt ở ngoài đường lộ trong khi đó tại một con hẻm cụt, vô trong một con đường mòn của Saigon, nay gọi là "đường liên xóm của thành phố Hồ Chí Minh", trong căn nhà lá nhỏ một bên chủ bên khách chụm đầu vào nhau bàn bạc vừa mặc cả tổng số cây vàng để mua một chuyến vượt biên. Ba cây vàng cho một đầu người. Đưa đủ số lượng ở tại Sài Gòn thì được bớt nửa cây. Họ nói nhanh rút nhanh còn lẹ làng hơn tụi Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam đi đánh Hội Đồng Xã. Anh Vỹ tiễn chân khách ra cửa còn hỏi với thêm quần áo trang bị: - Tụi tui mặc quần áo gì cho không bị khả nghi" - Ừ cứ mặc đồ thường. Hàng ngày mặc đồ gì thì cứ giữ thứ đó. Giản dị thôi. Như thường ngày đi làm vậy. Nhớ là đừng đội nón lưỡi trai, dân Rạch Giá họ sẽ biết ngay mình ở Sài Gòn xuống. Vỹ nói đúng ý: - Chị Bảy Bét mới thật là một chuyên viên vượt biên! Tui hên lắm mới gặp được chị.
*
Bắt đầu từ 11 giờ đêm, từng nhóm 5, 3 người len lỏi trong vườn mía từ từ chui ra có mặt tại tụ điểm. Đủ hạng người Nam, Trung, Bắc, đàn ông đàn bà, nam, nữ, ông già bà cả. Người thì quần áo quấn kỹ, người xách túi xách hoặc giỏ đi chợ đựng đồ ăn giống như người đi chợ, có lẽ họ ngụy trang che mắt công an hoặc người địa phương để không biết họ toan tính vượt biên. Tụ điểm là một khoảng trống nằm trong khu vườn mía. Mía nhổ sạch chỉ còn lại các gò đất lỏm chỏm để đám đông không đụng chạm lá mía cắt da và tránh tiếng đông xào xạc. Cả bọn không ai bảo ai đều im thin thít. Nhưng hồi lâu lại có tiếng người đàn bà rầy con: - Đi cầu sao lại không đi trước bây giờ phải làm sao" Khổ cho tui quá! Đồ quỷ! Trong bóng đêm có tiếng người tặc lưỡi, gầm gừ: - La um chết cả lũ bây giờ. Cho nó đi đại trong quần đi. Để thúi còn hơn đi ra ngoài kia cho công an bắt. Rồi lại có thêm tiếng khóc ưng ức của người con gái. Một người dọa nạt: - Muốn chết hay sao, bịt miệng nó lại đi các ba các má! - Đi vượt biên sao chị lại khóc" - Em nhớ má em. - Trời! Thật là trẻ con! Trong bóng tối mờ mờ trăng,Vỹ thấy ông bạn vừa kêu "trời" có mang khẩu súng K-54 thả xệ ngang hông. Vỹ đoán biết chính gã là công an làm việc cho quận huyện gì đây nhưng đã thông đồng "bán bãi" làm lơ cho đám vượt biên trốn ra khơi. Tới giờ đã định, đám người lạ trong đó có anh chị Bảy Bét tới dòm từng người nhận diện và thu lại thẻ mua giấy tàu của khách hàng, đó là hộp lưỡi lam hiệu Bà Đầm. Ở đằng xa, con tàu lù lù xuất hiện tức thì đám đông không ai bảo ai tua túa chạy vụt tới để giành sự may mắn lên ngồi được trên tàu mới chắc ăn "Hàng Vượt Biên Thứ Thiệt". Tàu rời bến đậu, mọi người thở phào nhẹ nhõm. Kẻ ngồi người đứng giống như đám mía lau cắt trong vườn mía kia thả ra biển lững thững như đám lục bình trôi. Con tàu đang theo dòng nước trôi dạt thong dong không khác nào một chiếc tàu đưa người du lịch khoan thai ngoạn cảnh, chớ không có tính cách trốn chạy của con tàu vượt biên đúng nghĩa. Vỹ lo sợ không tưởng tượng được vì đây lại là con tàu vượt biên vì nó nhỏ thó dài chỉ độ 13 thước. Không mui. Không thuyền trưởng. Không lương thực. Không thuốc men. Vậy mà chuyên chở 53 mạng người, vách tàu chỉ còn cách mặt biển không hơn một gang tay. Ban tổ chức họ là ai" Chở đám người này đi đâu" Một lát nữa phong ba của đại dương sẽ cuốn đám người dại khờ bỏ tiền ra để chôn lấp mạng mình trong lòng biển cả" Chiếc tàu không ống khói trôi tà tà trên mặt đại dương phản chiếu ánh trăng soi rọi mặt biển như tấm lụa xanh xanh óng ánh. Người người mở mắt thao láo nhưng lòng họ chết điếng bởi sự yên lặng đến lạnh lùng của vực sâu và biển cả. Đang lặng thinh bỗng nhiên có tiếng người đàn ông khàn giọng chửi thề: - Đ.M! Chết hết một máy xăng rồi. Có tiếng chân rần dẫm lên be tàu cây chạy lẹt xẹt chạy về hướng đuôi tàu, nói xen vô:
- Liệng mẹ nó cái máy xăng đi. - Ừ, còn lại cái máy dầu liệu đi nổi không" Nửa tuyệt vọng nửa như người bị chìm bám được ván gổ: - Nổi hay không nổi thì sao chớ" Còn cách nào hơn nữa" - Ừ! Vỹ tiến lại gần anh tài công ngồi ở vàn đuôi tàu hỏi tìm sự thật: - Sao anh không giữ lại mấy can xăng để khi nào sửa lại được máy thì có xăng dùng" - Máy vô nước rồi còn giữ lại làm gì cho nặng ghe. Bây giờ Vỹ đã sáng mắt, họ đưa mình đi ghe nhưng lúc còn ở trên bờ thì lái buôn khoe khoang đi tàu cho lực lưỡng và được lòng tin của khách. Vỹ vẫn không chán nản góp ý: - Tôi là thợ máy, đâu anh đưa tôi dụng cụ để tôi mò mẫm sửa chữa thử coi. Anh tài công loay hoay lấy một vật bằng sắt nhét dưới khoang ghe lẹ làng đưa qua tay Vỹ: - Có cái kềm mũi nhọn được không" - Trời! Chỉ một cái kềm con thì làm gì vặn được các ốc voi. Cụ bị đơn giản như vầy thì vượt biên nỗi gì" Lúc đó trời mờ sáng, Vỹ thấy rõ viên tài công là một người đàn ông tuổi khoảng 30, ốm nhom, tóc dài quá mép tai. Một mắt lé ngó trái thấy bên mặt. Hắn mặc cái áo thun màu xám nhà binh để lòi cánh tay xương xẩu suông đuộc như cái que củi chấp nối với một cán cây điều khiển bánh lái chân vịt. Vỹ nhìn mà thương hại cho anh tài công, thân xác bé nhỏ, tài năng thấp kém lại đảm đang việc lớn quá sức mình. Vỹ một mình cười lớn, đám người trên ghe nghe Vỹ cười tưởng rằng ông này bị tuyệt vọng đến cuồng trí chớ có biết đâu rằng họ bị Vỹ cười chê mọi người có mặt tại đây, kể cả Vỹ, đều ngu si giao tính mệnh cho một gả tài công có tiếng mà không có miếng, vì gả chẳng biết định phương hướng và xử dụng hải bàn thì có khác nào đi vào chỗ chết. Mạng người có số. Cũng có thể trong 53 người trên chuyến ghe vượt biên này không có số bị tù cộng sản nên rạng sáng ghe đã chạy ra ngoài hải phận quốc tế. Khi biết ghe đã tới hải phận quốc tế, mọi người như một buổi tiếp rước náo nhiệt tại khải hoàn môn. Họ vui cười la ó. Có người ca hát vỗ tay reo hoặc đánh tay vào bao bị làm nhịp cho các điệp khúc, hát hò vô tận, cứ như là đã đạt được sự thành công trong chuyến hải trình lên được mảnh đất tự do. Vui tới đó rồi ngưng lại đó vì chuyến đi còn tiếp tục. Biển rộng bao la bao trùm một chiếc ghe cỏn con. Có khác nào con kiến vàng nhỏ nhí đeo trên chiếc lá thả trôi trên con sông cái. Xa thăm thẳm. Ghe vẫn trôi theo giờ khắc định mệnh, đủng đỉnh lần hồi đo từng gang tấc đại dương. Bắt đầu có người trên ghe bị say sóng ụa mửa, tay móc họng cho nôn ọe. Ở đây tiếng người rên như bị cúm. Kia, lại có tiếng khóc của trẻ nít đói bụng. Mọi nhu cầu không được thỏa mãn nhưng cũng qua đi vì mọi người đã mệt lả và thiếp dần. Như lớp cá mòi đóng hộp, mọi người nằm sát bên nhau, ôm ấp nhau tìm hơi ấm và sức sống hui hắt của sức kiệt và hơi tàn. Lâu lâu một cơn sóng tạt qua để rửa ráy lớp người hôi thối vì sự đóng cặn của bụi cát, mồ hôi, bã ói và tổng hợp của cứt đái trên thân thể da thịt của lớp cá mòi gần như sình thúi. Họ lại thức dậy. Người mắt trổm lơ. Kẻ tóc tai rủ rượi. Trưa biển nóng ác nghiệt. Đàn ông cởi trần có người tháo bỏ quần dài. Đàn bà con gái có người bị nóng biển hành hạ bứt rứt giựt đứt nút áo lúc nào không hay để thân thể lồ lộ đi tới đi lui trên một thân ghe tròng trành điên đảo. Không khác nào một khu người điên có mặt trên biển, chỉ có một mặt trời chứng kiến. Giông tố chưa tới nhưng tàu cướp đã tới gần. Từ đàng xa một con tàu chạy xồng xộc tới càng lúc càng nhanh. Một đám đực rựa đứng trước mũi tàu la hét rần rần. Chúng nói gì với nhau bằng tiếng Thái chí chóe như bầy khỉ ở rừng già.Tới gần mới thấy thằng nào thằng nấy mình mẩy đen thui như quét lọ, tay chân kệch cỡm, dân đánh cá nên tên nào cũng lực lưỡng, sức lực mạnh bạo. Chúng chỉ mặc một cái quần xì trông thấy ai cũng kinh hồn vì biết chắc chắn là bọn cướp, nói đúng là gặp hải tặc rồi. Nói đến hải tặc dân mình ở Việt Nam đều rợn tóc gáy vì nói đến hải tặc là hiếp dâm, giết người. Biết vậy như khi ở xứ mình không ai màng tới thảm trạng tang tóc đó, vì thật sự nghe nói nhưng chưa ai chứng kiến hình ảnh rùng rợn và khủng khiếp như hôm nay đám người Việt đi vượt biên là nạn nhân của vụ hải tặc. Chúng hô hố nhảy bươn qua ghe vượt biên làm cho chiếc ghe lắ lư, nước biển có dịp đổ vào tràn đầy như cơn nước dẫn thủy nhập điền. Tiếng khóc, tiếng kêu trời, van xin , cầu nguyện... Không được 5 phút tất cả đàn ông đàn bà người Việt trên ghe đều bị chúng ra lệnh cởi trần truồng để chúng khám vàng bạc nữ trang. Có tiếng khóc ré. Nhìn lại ở trên ván đầu ghe một tên hải tặc Thái đang đè một cô gái Việt làm tình túi bụi như một con voi rừng. 1 tên, 2 tên, 3 tên cả lũ chúng noi gương xấu xa làm việc dâm ô táo bạo trên ghe. Không ai dám trở tay vì số người trên tàu của họ rất đông và toàn bộ là đàn ông dữ tợn. Một người đàn ông Việt lui cui tìm vật gì dưới khoang ghe bị một tên Thái mới làm tình xong nhìn thấy lại gần bưng hỏng anh lên và quăng xuống biển. Có tiếng người la chói lói có lẽ là vợ của anh ta vừa bị hãm hiếp xong chưa hết khiếp đảm thì hốt hoảng thấy cảnh chồng mình bị quăng xuống biển. Chồng bị ngoi ngóp bơi theo ghe, nhưng ghe đã chạy xa bỏ anh ở lại với sóng biển vừa lên ngọn cuồng phong. Bọn hải tắc tiếp tục bày nhiều cảnh khủng khiếp. Một ông trạc tuổi 50 có bịt cái răng vàng ở hàm trên, bị một tên cướp Thái bắt ông nhe răng, nó lấy cái búa bổ vào hàm để bươi lấy cái răng vàng. Chúng lượm được cái răng vàng trong khi mọi người nhìn mặt ông, không ai còn thấy đó là cái mặt người mà chỉ hình dung được đây là cái tô vun máu. Một đứa bé 2, 3 tuổi đang ôm bú sữa mẹ, cuối cùng cũng bị một tên hải tặc kéo lôi xệch đứa bé ra khỏi vú mẹ liệng xuống biển như trò chơi ném dĩa bay vèo trên mặt nước, rồi quay lại ôm thân thể người đàn bà xé tẹt chiếc quần bà đang mặc để hành lạc trước mặt mọi người. Một cô gái lõa lồ mới vừa bị chúng hãm hiếp xong còn quá khiếp đảm vội ôm một người thanh niên đứng gần bên để mong được che chở và tránh được cảnh bị chúng bề hội đồng tập thể. Nhưng bọn cướp Thái chưa chịu tha. Chúng men tới gần kêu hai người bước ra, buộc là vợ chồng thật sự thì hãy làm tình trước mặt mọi người chúng mới tin là vợ chồng thật. Chúng hả hê tom góp vàng bạc, thỏa mãn khoái lạc nhục dục rồi giục nhau trở lại tàu đánh cá của chúng. Tưởng vậy là yên nhưng vài tên Thái còn sót lại kêu hai thanh niên Việt Nam còn trẻ lại gần rồi bất thần chúng xô ngã xuống biển. Tàu cướp Thái đi xa, còn lại trên biển một quang cảnh tang thương. Khóc lóc. Rên xiết. Kêu trời. Kêu Phật. Óan Chúa. Oán Thần. Có người lên cơn điên cười khóc rũ rượi. Có người nhẩy ùm xuống biển tự tử làm tung nước bắn lên ghe. Không ai can gián. Cũng không ai còn sức tiếc thương. Số người còn lại trên ghe là hiện thực của vết ô nhục còn xót lại trên mặt biển. Chiếc ghe vô danh không người lái tiếp tục trôi tới phía trước, vật vờ theo định mệnh. Thêm một đêm rồi thêm một ngày, chẳng biết bao lâu, lại một tàu cướp khác xuất hiện. Tàu bọn cướp này lớn hơn, bọn hải tặc cũng đông hơn. Những người sống sót còn trên chiếc ghe trôi dạt đã kiệt sức nên mặc tình cho chúng làm gì thì làm. Bọn hải tặc dữ tợn như sói rừng. Cảnh tượng ô nhục lại tiếp diễn. Đàn bà con gái bị hãm hiếp. Búa rìu đập đầu đàn ông. Xô người xuống biển.... Trước khi rời chiếc ghe tả tơi, lần này bọn hải tặc còn ra sức đập phá chiếc ghe cho tan nát. Ghe bể, từng mảnh ván ghe bềnh bồng. Một số sống sót trong đám thuyền nhân rải rác trên mặt biển ráng tìm bám từng miếng ván. Họ ngoi ngóp và lần lượt chìm sâu. Và rồi tất cả dấu vết của con tàu định mệnh biến mất trên mặt biển. Màn đêm trở về bao trùm lên mặt nước đại dương.
*
Một người duy nhất sống sót trong đám 53 người vượt biên ra khơi ngày 13 tháng 7 năm 1981 có tên trong giấy An Sinh Xã Hội của Mỹ ghi là Nguyễn Cảnh Vỹ. Hồ sơ lý lịch tại sở Di Trú INS ghi rõ hơn, ông Vĩ là thuyền nhân "Boat people" đi tàu vượt biên bị chìm, may mắn bám được một tấm ván trôi nên sống sót và được một tàu Mỹ làm việc ở dàn khoan dầu ngoài khơi cấp cứu. Tại Department of Social Security thì ghi hồ sơ tên Vỹ bằng tiếng Mỹ: Marriage status: single. Realation: None. History of health: Mental. Chuyện thật về số phận con tàu định mệnh ấy xảy ra thế nào không còn ai biết đến. Giống như số phận cả ngàn con thuyền, hàng trăm ngàn thuyền nhân đã chìm sâu trong đại dương, tất cả chìm dần vào lãng quên. Chứng nhân duy nhất về con tàu bị hải tặc kể trên không ai khác hơn là ông Nguyễn Cảnh Vỹ, giờ đây chỉ là một cái xác mất hết hồn vía. Với giấy tờ lý lịch được cấp phát, ông Vỹ được người Mỹ và nước Mỹ nhân đạo chấp thuận cho ông lãnh tiền bịnh Social Security Income ngay từ lúc bước vào đất Mỹ tìm "Tự Do".