Người Việt gốc Bắc XHCN làm nhục dân VN vì tập quán tội phạm trên khắp thế giới
18.09.2018 11:14
‘Người Việt nhưng không phải Người Việt’ Câu nói này có khó hiểu hay không? Vì sao người Việt nhưng không phải là người Việt? Đây là nhan đề một bài báo của Bác Sĩ Trần Văn Tích, một nhân sĩ ở Đức Quốc đã lên tiếng kêu gọi chính quyền và quần chúng địa phương xác định rõ ràng rằng cộng đồng tỵ nạn ra đi từ miền Nam Việt Nam không dính dáng gì đến những tội hình và tội hộ do người Việt gốc gác ở miền Bắc gây ra trên đất Đức.
Câu chuyện khởi đi từ một việc xảy ra cách đây vài năm tại một thành phố nhỏ, Andernach, nước Đức. Đó là câu chuyện về con mèo Mungo. Một người Việt tên Trần Quý, gốc gác từ miền Bắc Việt Nam, đã bắt một con mèo của một người cao niên hàng xóm, đốt nó bằng một ngọn đèn xì hiệu benson, để nhậu nó với nước mắm, nước cốt chanh, rau thơm và tỏi, vì “nhớ hương vị quê hương!”
Tin tức tai tiếng này được loan tải trên nhiều tờ báo cả tiếng Anh lẫn tiếng Đức ở Âu Châu. Đặc biệt trong trường hợp Trần Quý được ghi đầy đủ tên họ, không phải như những trường hợp khác tên của can phạm được viết tắt. Cả cộng đồng dân cư Andernach náo động. Hai bà hàng xóm của Trần Quý, Christina Sarwatka và Stephanie Jung kêu cứu với cảnh sát. Tất cả những con mèo ở Andernach đều bị “cấm trại” 100%. Ba mươi con mèo đã bị mất tích, người ta đồ chừng, chúng đã đi qua lò nướng của Trần Quý.
Một vết dơ vấy lên mặt thủ phạm hay lây lan qua chúng ta, và người Đức sẽ nhìn tất cả người Việt ở đây như thế nào?
Nhân danh Liên Hội Người Việt Tỵ Nạn tại CHLB Đức, Bác Sĩ Trần Văn Tích đã viết thư cho Sở Cảnh Sát Andernach, trấn an giới chức công quyền địa phương là người tỵ nạn Việt Nam không có thói quen ăn thịt mèo và xin hai bà hàng xóm của gia đình thủ phạm giết con mèo Mungo nhận cho lời chia buồn và niềm tiếc nuối.
Trước năm 1975, nhiều sinh viên kỹ thuật miền Nam đi du học ở Tây Đức, là những thành phần chống Cộng nổi tiếng. Sau 1975, một số thuyền nhân vượt biên được vào tỵ nạn tại Đức Quốc, đương nhiên là những người không chấp nhận chế độ Cộng Sản.
Bắc Việt, thường chọn Đông Âu và Nga Xô để xuất ngoại. Sau khi Liên Xô sụp đổ, rất đông những người Việt của miền Bắc từ Nga đã di cư sang Đông Âu. Khi nước Đức thống nhất, người Việt gốc gác từ Miền Bắc đều xin định cư ở lại nước Đức.
Hiện nay, các quốc gia có nhiều người Việt định cư trên thế giới, như nước Đức, nửa quốc gia nửa Cộng Sản. Phần nửa Cộng Sản làm xấu mặt phần nửa quốc gia vì các nạn trộm cắp, băng đảng, trồng cần sa, buôn lậu…
Nhiều băng Bắc Việt đã trồng cần sa tại trại Atzendorf, tiểu bang Sachsen-Anhalt, thuộc lĩnh vực Đông Đức cũ, rửa tiền bất hợp pháp. Ngay cả Đại Sứ Việt cộng tại Thổ Nhĩ Kỳ, mang vào Đức gần hai chục ngàn Euro mà không khai báo.
Nhân viên Đại sứ quán Việt cộng nhập viện điều trị, phí tổn lên đến từ 10 đến 15,000 Euro, nhưng không chịu thanh toán.
Chỉ trong vòng ba năm trước ngày Phạm Thị Hoài lên tiếng về “nghề ăn cắp của người Việt tại Đức” (Tháng Bảy, 2015) mỗi năm cộng đồng 84,000 người Việt tại Đức, đã có 5,000 mang tội hình sự, trong đó đã có 1,000 vụ ăn cắp, còn tệ hơn người Tàu (11,000 người với 200 vụ ăn cắp mỗi năm.) Tại Đức băng đảng người Việt lộng hành, trong cuộc chiến giành thị trường thuốc lá lậu, đồng chí giết đồng chí, băng Ngọc Thiện “xử tử” sáu đối thủ trong một căn chung cư thì băng Quảng Bình đáp lễ bằng ba xác người vứt ngoài đường tàu. Thành phần chính của băng đảng là những “bộ đội anh hùng” súng ngắn giắt cạp quần.
Về chuyện người Việt ở Đức, bài báo “Người Việt ăn cắp ở Đức” của Phạm Thị Hoài đã gây chấn động. Ai cũng biết rằng người Việt được nói trong bài là người Việt mới, người Việt tiến bộ, người Việt XHCNVN. Phạm Thị Hoài kể rõ lai lịch của họ: họ gốc gác Nghệ an, Quảng bình; họ tụ tập sinh hoạt tại chợ Đồng Xuân Berlin.”
Ông Trần Văn Tích cho rằng: “Một số người Đức cũng hiểu như thế. Dẫu vậy, vấn đề thanh minh cho công luận Đức am tường sự thực vẫn thường cứ phải đặt ra.”
Trong thư gửi cho cộng đồng người Đức, Bác Sĩ Trần Văn Tích cũng xác định là Liên Hội Người Việt Tị Nạn tại Đức, không dính dáng gì đến Hội Liên Hiệp của người Bắc Việt tại Đức, trái lại vì biết rất rõ rằng đây là một tổ chức thống thuộc Đại sứ quán Việt cộng ở Berlin “nên chúng tôi, vì lý do an ninh bản thân, luôn luôn tìm cách xa lánh nó.”
Phải chăng vì luật pháp nước Đức quá nhẹ tay theo cách nói của Phạm Thị Hoài: “Xã hội càng yên, luật pháp càng hiền!” Luật pháp càng hiền thì người Việt “xã hội mới” ở Đức càng lộng! Trong khi người Việt ở Đức giàu có nhờ nghề thuốc lá lậu, thì bây giờ ở Anh, người Việt đua nhau trồng cần sa để mau làm giàu. Người Việt muốn làm giàu nhưng không thích cần cù làm việc, chỉ muốn đi đường tắt, hầu hết là con đường phi pháp.
Thanh niên mới đến Đức hai tuần, chưa làm đơn xin tị nạn đã hành nghề ăn cắp. Bọn này ăn mặc rất sang chảnh nên, thay vì gọi tên theo căn cước của chúng, Phạm Thị Hoài đã gọi chúng là bằng tên những thương hiệu nổi tiếng là Nike, Dolce Gabbana…
Nói chung, di dân từ Bắc Việt vẫn xem nước Đức là chỗ béo bở để kiếm ăn, mặc dầu ăn nhờ ở đậu nơi này, lãnh trợ cấp, chúng vẫn gọi Đức là “Phát-Xít,” “bọn Đức lợn…”
Và gần đây vụ Bắc Việt dùng lối hành xử côn đồ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh trong một khách sạn ở Berlin, hồi tháng Tháng Bảy, 2017 đã là một giọt nước tràn ly. Ở xứ này, còn ai muốn làm người Việt Nam nữa!
Xin hãy nghe lời kết đau đớn của một người Việt Nam tử tế ở Đức tên Trần Văn Tích: “Một người Việt Nam chỉ không muốn làm người Việt Nam nữa mà cũng thật vất vả quá chừng!” (Huy Phương)
Bốn người Việt bị bắt ở Singapore vì nghi trộm quần áo số lượng lớn
TPO - Cảnh sát đã bắt giữ 4 người mang quốc tịch Việt Nam bị nghi lấy trộm 868 món đồ từ các cửa hàng quần áo ở khắp Singapore.
Tờ Straitstimes dẫn lời cảnh sát Singapore tại cuộc họp báo ngày 17/9 cho biết trong số 4 người mang quốc tịch Việt Nam bị bắt, có 2 người đàn ông và 2 người phụ nữ, tuổi từ 26 đến 31.
Những người này bị cáo buộc lấy trộm 868 món đồ thời trang nữ (bao gồm cả đồ lót) thuộc nhiều nhãn hiệu nổi tiếng như Zara, Uniqlo... có tổng trị giá 26.000 đô la Singapore.
Để đánh lừa máy quét an ninh, các nghi phạm đã cẩn thận gói những món đồ lấy trộm được trong túi giấy bạc.
Các món đồ được gói cẩn thận trong túi giấy bạc. Ảnh: CNA
Cảnh quay từ CCTV cho thấy 4 nghi phạm đã thực hiện hành vi phạm tội nhiều lần, ở nhiều cửa hàng thời trang khác nhau.
Các nghi phạm cũng mang theo những túi đồ lớn, cho thấy đây không đơn thuần là hành vi trộm vặt, theo cảnh sát.
Cơ quan an ninh bắt giữ 4 nghi phạm nói trên hôm 16/9 tại một khách sạn, sau khi nhận được tin báo từ quản lý một cửa hàng bán lẻ ở Pasir Ris Close.
Trong số tang vật bị thu giữ, cảnh sát tìm thấy 529 chiếc áo lót, một vài túi đựng đồ du lịch, kìm bấm và mắc áo.
Số tang vật thu được. Ảnh: Straitstimes
Ảnh: Straitstimes
Phần lớn các món đồ bị lấy trộm là đồ lót nữ. Ảnh: Straitstimes
Ảnh: CNA
Cảnh sát Singapore mô tả đây là vụ trộm shop thời trang có quy mô lớn nhất trong vòng vài năm trở lại đây.
Nếu bị kết tội, các nghi phạm sẽ đối mặt với mức án 7 năm tù giam và phải nộp tiền phạt.
MINH HANH (TỔNG HỢP)
Theo Straitstime
Tại sao người Việt Nam(BK) lại trồng nhiều cần sa đến thế? (Michael L. Gray)
Vào đầu tháng 3 năm 2007, công an đã tìm thấy ma túy làm từ cần sa (cannabis) mọc ở nhiều khu vườn thuộc tỉnh Hà Tây, gần Hà Nội.
Những người buôn bán ma túy đã thuê nông dân trồng cần sa, và công an cho biết rằng chúng đã được trồng khá lâu rồi vì người dân địa phương không hiểu đó là loại cây gì. Người chủ của một vườn cần sa nghĩ rằng đây là một loại cây thuốc (và đúng vậy, nó là một loại thuốc), và nhìn chung thì nông dân rất ngạc nhiên khi biết rằng đó chính là một loại dược liệu bị cấm.
Có một số tài liệu, không nhiều, về lịch sử việc sử dụng cây cần sa ở miền Bắc Việt Nam. Ở đây nó không phổ biến như ở bên Lào hoặc một số nước láng giềng khác. Rượu và thuốc phiện (nay là Heroin) là những dược liệu được sử dụng theo cổ lệ. Tuy cần sa được trồng ở miền Nam trong thời kỳ chiến tranh, nhưng việc trồng cây này đã giảm rõ rệt sau khi lính Mỹ rút đi.
Vậy thì tại sao bây giờ nó trở lại? Người nước ngoài ở Hà Nội từ lâu đã than vãn về sự thiếu cần sa tốt ở địa phương, nhưng đây không chỉ là một sự tình cờ may mắn. Trong mười năm qua, những người Việt Nam buôn lậu ma túy đã trở thành nguồn cung cấp chính cần sa tinh chế cho thế giới. Sự lớn mạnh đột ngột của các vườn cần sa xung quanh Hà Nội chỉ là một trường hợp như “gà về chuồng để ngủ”.
Nhiều người trông cần sa là trẻ em
Ảnh minh họa nạn nhân của bọn buôn lậu cần sa và buôn người tại Anh Quốc. Nguồn: The Sunday Times, 25th August 2013
Nhưng làm thế nào và tại sao các băng đảng ở miền Bắc Việt Nam lại có thể biến cần sa thành một nguồn lợi của họ?
Câu chuyện chạy sang nước Anh, nơi mà vài năm gần đây cảnh sát đã bắt được một số kỷ lục những “vườn nước” trồng cần sa. Từ 2005-2007, ở London, nhà chức trách khám phá khoảng 1500 khu trồng cây cần sa, 500 vụ nhiều hơn 2 năm trước đó.
Có khoảng 75 phần trăm những người trồng cần sa này là người Việt Nam, và hầu hết họ là những người dân mới di cư gần đây. Tình trạng này đã xấu đến mức nhân viên di trú đã phải đi cùng với cảnh sát trong các cuộc truy bắt.
Rất nhiều công nhân trồng cần sa là trẻ em, đó là những trẻ bị những băng đảng buôn thuốc phiện dấu mang sang Anh Quốc, đặc biệt là để trồng cần sa. Trẻ em là đối tượng dễ dàng kiểm soát và có thể trả công rẻ mạt. Hơn nữa, chúng không thể bị buộc tội hình sự khi bị bắt, và như thế sau khi việc trồng cần sa bị đổ bể, những đứa trẻ có thể được đưa ra khỏi sự chăm nom của chính phủ và quay trở lại một nơi trồng cần sa khác. Nếu chúng bị ép phải trở về Việt Nam thì cũng không có gì có thể ngăn cản chúng khỏi bị dấu mang trở lại Anh quốc một lần nữa. (Một lỗ hổng trong Luật của Anh đã khiến cơ quan nhập cảnh không có trách nhiệm bảo an cho trẻ theo Đạo luật về Trẻ em năm 2004).
Món lợi khổng lồ. Một căn nhà trồng cần sa có thể kiếm được 500.000 đô la Mỹ một năm. Mười năm trước, 11% cần sa ở Anh là cần sa nội địa. Hiện nay số lượng này là 60%. Hơn nữa, một loại marijuana mạnh goi là skunk, có lượng thuốc nhiều gấp 10 đến 20 lần loại cần sa bình thường. Vườn trồng cần sa dùng những dụng cụ công nghệ cao giá lên tới 100,000 USD để gia tăng sản lượng và tránh sự dòm ngó của hàng xóm (mùi cây và độ nóng từ vườn cần sa rất cao, và phân bón hóa học rất độc).
Lý do trực tiếp cho sự gia tăng mức cung (và lợi nhuận) là do một thay đổi về mặt pháp luật năm 2004 đã giảm cần sa xuống dược liệu hạng C thay vì hạng B. Điều này có nghĩa rằng người tiêu thụ sẽ không bị buộc tội hình sự nếu như họ chỉ tích trữ một lượng nhỏ. Người ta hiểu rằng đây là một sự phi tội phạm hóa và do đó sản xuất cần sa nội địa cất cánh.
Miền Tây Canada, thiên đường của cần sa
Nhưng tại sao những băng đảng Việt Nam lại chuyên trồng cần sa? Tại sao không phải là những nhóm tội phạm khác?
Để trả lời cho vấn đề này, chúng ta hãy tiếp tục đi đến thành phố Vancouver tươi đẹp ở bờ Tây đất nước Canada của tôi.
Từ giữa đến cuối những năm 1990, người Việt Nam hầu như chiếm lĩnh toàn bộ công nghiệp trồng cần sa ở Vancouver và các vùng lân cận ở tỉnh bang British Columbia. Đây không phải là một chiến công nhỏ, vì sản xuất marijuana quy mô lớn trước đó thuộc quyền cai quản củacâu lạc bộ xe máy Thiên thần Địa ngục (Hells Angels) khét tiếng với việc sử dụng bạo lực với đối thủ.
Bờ tây của Canada đã là một ổ cung cấp marijuana từ nhiều năm. Trong những năm 1960, những người Mỹ trốn quân dịch đã đến vùng núi của tỉnh Bristish Columbia và trồng cần sa như một nguồn để sinh nhai. Người Canada có thái độ thản nhiên với chất kích thích nhẹ, và nhiều người sống ở bờ Tây đã trồng cần sa trong vườn của họ. Nhưng đây là những người “thích” trồng để dùng hoặc để bán lại cho bạn bè. Nhóm Thiên thần Địa ngục bắt đầu sản xuất cần sa ở mức độ công nghiệp lớn để cung ứng cho thị trường lớn ở Mỹ. Và trong những năm 1990, các băng đảng Việt Nam bắt đầu chiếm lĩnh thị trường.
Nhóm Thiên thần Địa ngục có những vườn ươm lớn ở trong các chuồng súc vật ở vùng nông thôn. Khi một khu trồng “cỏ” bị phát giác, cả “vụ mùa” sẽ mất và rất khó để bắt đầu lại. Những băng đảng người Việt lại chú trọng biến những nhà trọ và những căn nhà nhỏ ở khu vực đô thị thành những nơi trồng trọt. Nếu bị phát giác, họ dễ dàng lập lại những vườn ươm ở những nơi khác. Một điều quan trọng là, cảnh sát có thái độ mềm mỏng đối với tội phạm, ít nhất là lúc bắt đầu, và người nào bị bắt vì trồng cần sa sẽ chỉ bị phạt hoặc là bị tuyên án treo (không phải ngồi tù).
Một báo cáo của cơ quan chống ma túy của Mỹ năm 2000 cho biết rằng năm 1998, có 2.351 trường hợp trồng cần sa bị phát giác ở tỉnh bang Bristish Columbia. Một năm sau, những trường hợp này tăng 30%, tức là 3.279 vụ. Năm 1994, khoảng 325 cân marijuana bị tịch thu khi đang vận chuyển qua biên giới British Columbia với Hoa Kỳ (tiểu bang Washington). Và vào năm 1998 cảnh sát tịch thu 2600 cân cần sa.
Marijuana phẩm chất cao được chế biến hoàn hảo ở British Columbia, nơi mà các cửa hàng công khai bán hạt giống, dụng cụ và sách dạy trồng cây trong nước. Những năm 1990 “BC Bud” là loại cần sa hảo hạng và người Mỹ rất thích loại này. Giá một cân (pound – cân Anh) khoảng từ 1,500 USD cho đến 2000 USD ở Vancouver, và cần sa đó được bán với giá 3000 USD một cân ở California và tới 8000 USD một cân ở New York (số liệu lấy từ Báo cáo năm 2000 của DEA). Những đánh giá gần đây cho biết rằng giá trị thương mại của cân sa khoảng 6,5 tỷ đô la Mỹ một năm cho tỉnh British Columbia, đứng thứ hai sau dầu mỏ và khí đốt.
Hải Phòng, như những thành phố cảng khác, có nhiều thành phần bất hảo
Nhưng thế này mới chỉ là đặt phạm vi của vấn đề, nó vẫn không trả lời câu hỏi ban đầu của chúng ta là: Có nhiều nhóm dân di cư ở Vancouver, tại sao các băng đảng Việt Nam lại thống trị [thị trường cần sa] nhanh đến như vậy?
Để trả lời cho câu hỏi, tôi nghĩ là rất cần để xem lại câu chuyện cụ thể của việc di cư. Và cũng cần nói ngay cho rõ, những người Canada gốc Việt không liên quan gì đến câu chuyện này. Trong những năm sau 1975, Canada cũng như nhiều quốc gia phương Tây khác đón nhận hàng chục nghìn người Việt Nam tị nạn cộng sản. Những người tị nạn này đến từ miền Nam Việt Nam, phần lớn là chuyên viên có học vấn. Họ sinh sống ở những đô thị lớn ở Montreal, Ottawa và Toronto, và ít hơn ở những thành phố khác như Edmonton và Vancouver.
Nhìn chung, thế hệ những người tị nạn di cư đầu tiên này khá thành công ở Canada. Ottawa, quê tôi, là một trong số ít trong các thành phố Bắc Mỹ mà không có cái thực sự gọi là “khu phố Tầu”. Chúng tôi lại có khu phố Việt Nam, với đầy các cửa hàng, doanh nghiệp thương mại đa dạng (không chỉ là nhà hàng) do người Việt Nam hoặc người Việt gốc Hoa làm chủ. Ottawa là trung tâm của công nghiệp cao của Canada, và một vài năm trước tờ Ottawa Citizen đã đăng một câu chuyện tiêu biểu cho sự nổi bật của những kỹ sư Canada gốc Việt Nam ở trong khu vực kinh tế này.
Nói chung, đây là câu chuyện về người Canada gốc Việt khắp mọi nơi ở Canada, những chuyên viên có học vấn, thuộc đủ ngành nghề. Tuy nhiên khi nói đến Vancouver thì mọi thứ đã thay đổi đôi chút.
Vancouver là một điểm đến cho những người miền Bắc Việt Nam đã đi tị nạn ở Hồng Kông. Đây là những người tị nạn kinh tế [hay vì chính sách bài Hoa của đảng cộng sản] chạy khỏi Việt Nam khoảng giữa những năm 1980. Rất nhiều người trong số họ xuất thân bình thường, nhìn chung, hầu hết họ đến từ Hải Phòng và một số vùng nghèo khó ở vùng duyên hải miền Bắc. Hải Phòng, như những thành phố cảng khác, có nhiều thành phần bất hảo. Tôi được nghe kể rằng vào những năm 1980, Việt Nam ở giai đoạn tuyệt vọng đến nỗi cán bộ chính phủ bắt những tội phạm xấu xa nhất tống lên thuyền để đẩy đi Hồng Kông. Thế nào đi nữa thì trại tị nạn ở Hồng Kông cũng là một nơi khủng khiếp, người tị nạn bị bỏ quên hàng năm trời trong tình trạng hoang mang, dưới sự cai quản của những băng đảng phát triển tràn lan không bị chính quyền bên ngoài kiềm chế. Ngay cả nếu không có xu hướng pháp tội, sau khi tới ở đó, không ai có thể trách bạn có xu hướng này khi rời khỏi trại tị nạn ở Hong Kong.
Những người miền Bắc Việt Nam đến Canada vào những năm cuối 1980 và những năm 1990 thường đến Vancouver hoặc miền Tây Canada (Tôi không hiểu tại sao). Ở đó, họ có lẽ đã gặp những người Việt Nam đến từ miền Nam đã thật sự “hội nhập” hoặc ít nhất là sống một cách thành đạt như những người trung lưu ở Canada. Không có một cơ quan nào đón tiếp họ. Thiếu giáo dục và thiếu cơ hội, những người tị nạn di cư mới này trở thành nạn nhân phải làm việc cho các băng đảng trả nhiều tiền để họ làm những công việc không cần kinh nghiệm.
Tỉ lệ rủi ro/phần thưởng trong việc trồng cần sa vào những năm 1990 ở Vancouver gần như chỉ là phần thưởng với những rủi ro không đáng kể. Xã hội, kể cả cảnh sát, có một thái độ tương đối rộng lượng đối với những người di cư mới (tống giam hàng loạt những người di cư mới không phải là hành động chính trị thời thượng ở Canada). Hơn nữa, xã hội, kể cả cảnh sát, đã có một thái độ mềm mỏng với tội phạm ma túy (có sự phân biệt lớn ở Canada và Anh Quốc giữa ma túy “nhẹ” như marijuana và “nặng” như heroin). Khi việc trồng cần sa ở đô thị bị phát giác, kết quả là phạm nhân chỉ bị phạt chứ không bị tù. Đó là môt sự khác biệt lớn giữa Canada và Hoa Kỳ, và đây là lý do tại sao việc trồng cần sa không xẩy ra ở phía Nam biên giới – ít nhất là cho đến những lúc gần đây.
Như vậy, đối với những thành viên của các băng đảng đến Vancouver, thật là dễ dàng tuyển mộ những người Việt Nam để trồng cần sa. Họ chuyển lợi nhuận vào các tổ chức tội phạm khác, kể cả việc buôn lậu heroin. Chỉ trong vài năm, những băng đảng Việt Nam đã đuổi nhóm Thiên thần Địa ngục ra khỏi Vancouver, cảnh sát đã phải gọi họ là “những tội phạm tập trung ngoại hạng và gan lì nhất từ trước đến nay ở Canada.”
Sống trong nền kinh tế kế hoạch tập trung của những năm 1980 ở Việt Nam – nơi mà tất cả mọi người đều “vi phạm pháp luật” chỉ để sống còn – và cuộc di cư cực kỳ khó khăn đến trại tị nạn ở Hong Kong – nơi từng được so sánh với một ‘gulag’ ở Liên Xô – chắc chắn đã ảnh hưởng tới sự quyết tâm của họ để thành công ở Canada bằng mọi giá.
Từ bờ biển miền Tây của Canada, và từ những người trồng cần sa đến từ miền Bắc Việt Nam và những người Việt gốc Hoa, thương mại đã lan rộng. Họ xuyên qua Canada, kéo thêm những người di cư (miền Nam) Việt Nam và dân châu Á khác vào việc kinh doanh, không chỉ là những người trồng, mà còn sử dụng những ngươi mua bán địa ốc và những người khác có khả năng dễ mượn tiền thế chấp bất động sản sang trọng ở ngoại ô. Và vì mạng lưới của người tị nạn Việt Nam có tính quốc tế, với thành viên của cùng một gia đình hoặc dòng họ được các chính phủ khắp nơi cho đến cư trú, vì vậy cũng không có gì là lạ việc kinh doanh cần sa đã nhanh chóng chạy sang các nước khác, phần lớn là Anh Quốc, khi mà tỉ lệ rủi ro/phần thưởng ở đây trở nên thuận lợi hơn nữa.
Còn một cái ngoắt ngoéo cuối cùng của câu chuyện này. Hoa Kỳ trước kia không được chọn làm nơi sản xuất (cần sa) vì luật pháp không khoan nhượng (như ở Canada hay Anh Quốc): bị bắt có nghĩa là xộ khám đến 10 năm.
Tuy nhiên, sau vụ khủng bố ngày 11 tháng 9 năm 2001, an ninh biên giới đã được thắt chặt và số lượng ma túy bị tịch thu ở biên giới Canada – Hoa Kỳ tăng lên đáng kể. Vì thế, những người buôn lậu cần sa đã mở những cửa hàng ở Mỹ, cung cấp “dụng cụ làm vườn” và kiếm người buôn bán địa ốc trong cộng đồng người Việt có thể giúp họ mượn tiền thế chấp để mua bất động sản lớn ở vùng ngoại ô. Bạo lực đã gây rắc rối cho kinh doanh ở Vancouver, thất đáng buốn, cũng đã di chuyển xuống phía nam của đường biên giới.
Vào một lúc nào đó, có lẽ chỉ vài năm trước, các băng đảng Việt Nam đã quyết đinh rằng quê hương của họ ở đồng bằng sông Hồng sẽ là một điểm tốt để lập những vườn trồng cần sa (Có ai đã thử hàng ở Việt Nam chưa?) Điều này chắc chắn khiến cho chính phủ Việt Nam lo ngại, và họ đã bắt đầu có phản ứng: đầu năm 2007, sứ quán Anh và Canada đã giúp chính phủ Việt Nam thành lập một lực lượng đặc biệt chống rửa tiền đặc biệt là đống tiền cần sa. Với người Việt Nam bình thường, băng đảng kiếm được hàng triệu đô la ở nước ngoài có lẽ chỉ có một tác động đáng kể – tiền bán thuốc phiện hồi hương đang góp phần vào thị trường bất động sản vốn đã quá nóng.
Thế nào đi nữa, khi một món hàng xịn được những người nông dân ở đây phát giác, nó sẽ lan như lửa cháy rừng khô. Nếu trong tương lai marijuana được bán ở sàn chứng khoán Hà Nội thì tôi sẽ là người đầu tư.
Tác giả Michael L. Gray sống, không liên tục, ở Việt Nam từ năm 1995, phần lớn ở Hà Nội nhưng hiện ở Sai Gòn. Ông làm việc trong lĩnh vực truyền thông.
Bài báo mới đây trên Vnexpress.net cho biết từ ngày 27 đến ngày mùng 4 tết có 5000 người nhập viện do đánh nhau.
Còn theo bài báo ‘Thiếu hàng chục ngàn chỗ giam giữ’ trên Tuổi trẻ thì cả nước đang cần đến 3.600 tỷ đồng để xây nhà giam giữ vì hiện còn thiếu đến 26.000 chỗ giam giữ theo quy định.
Báo cáo của Bộ công an cho biết năm 2014 cả nước đã khởi tố mới 77.913 vụ án, với 121.039 bị can. Trong đó có 25.934 vụ với 55.944 bị can liên quan đến tội phạm xâm phạm trật tự xã hội.
Phát triển mất cân bằng
Những con số trên cho thấy xã hội Việt Nam hiện nay nhiều tội phạm quá.
Mặc dù không có số liệu so sánh nhưng có thể nhận định tỉ lệ tội phạm ở Việt Nam cao hơn nhiều so với các nước phát triển. Báo chí đưa tin nước Hà Lan phải đóng cửa nhà tù do không có phạm nhân.
Điều đó cũng dễ hiểu vì Việt Nam hiện là nước có số dân đông hàng cao nhất nhưng kinh tế xã hội lại nghèo nàn lạc hậu thuộc hàng thấp nhất thế giới.
Nhiều người thường lý giải tình trạng tội phạm hiện nay là do ‘tương thích’ với tầm mức phát triển kinh tế xã hội.
Song cách lý giải như vậy sẽ khiến người ta cảm tưởng rằng việc ngăn giảm tội phạm là không thể vì nó có nguyên nhân khách quan bất khả kháng.
Khi đó dễ dẫn đến thái độ thụ động và người ta ít nghĩ đến những việc có thể làm giúp cho tội phạm ít đi.
Thực ra chúng ta đã có thể khiến cho tình trạng tội phạm khác đi và ít hơn mặc dù số lượng nguồn lực là không đổi.
Câu hỏi đặt ra là lâu nay chúng ta đã làm tốt những việc mà nếu làm tốt sẽ làm cho tội phạm ít đi chưa?
Phải chăng lâu nay việc xây dựng chính sách phát triển kinh tế xã hội còn nhiều bất công, khiến cho tầng lớp lao động nghèo bị bỏ rơi từ đó sinh ra tội phạm?
Bỏ quên người nghèo
Tình trạng tội phạm có thể đã ít hơn nếu như đường lối phát triển cân bằng hợp lý, bằng cách lựa chọn đúng đắn các vấn đề ưu tiên mặc cho số nguồn lực vẫn chỉ có thế.
Chính sách phát triển phải cân bằng hợp lý để giải quyết được vấn đề thay vì tạo ra thêm các vấn nạn xã hội mới.
Vì một khi chất lượng chính sách thấp sẽ không chỉ gây lãng phí nguồn lực mà nó còn khiến các vấn đề khác bị bỏ lại không được giải quyết.
Tiền thì có hạn, đã tiêu cho việc này thì thôi việc khác.
Trong khi đó chúng ta biết rằng trong xã hội luôn tồn tại người giàu người nghèo và mỗi tầng lớp gặp phải những vấn đề cần giải quyết khác nhau.
Một ví dụ rất điển hình cho thấy tuy cùng là người một nước nhưng người giàu và người nghèo có những mối quan tâm rất khác nhau.
Mới đây dư luận ồn ào về cuốn sách ‘Tôi tự hào là người Việt Nam’ được viết ra bởi một số nhà ngoại giao và doanh nhân.
Sự kiện này thu hút được một số giới quan tâm nhưng hầu như xa lạ với nhân dân lao động.
Bởi lẽ người giàu đi nước ngoài nhiều, tiếp xúc với bên ngoài mới thấy xã hội Việt Nam tụt hậu, người Việt Nam bé nhỏ, từ đó nảy sinh tâm lý mặc cảm tự ti rồi an ủi động viên tinh thần cho mình bằng suy nghĩ tự hào là người Việt Nam.
Ngược lại người nghèo trong nước quanh năm lao động vất vả, sống và tiếp xúc với người hàng xóm thì họ không đặt ra vấn đề đó.
Các vấn đề họ quan tâm là có nước sạch để dùng giúp trẻ con khỏi bị các bệnh giun, tiêu chảy hoặc các bệnh khác.
Họ quan tâm làm sao mua được một căn nhà để vợ chồng con cái có chỗ ở tử tế.
Họ quan tâm làm sao tội phạm bớt hoành hành để họ còn yên tâm làm ăn.
Họ muốn chính quyền cần khác đi để trở thành một cái gì như là giải pháp giúp đỡ chứ không phải là thứ mà họ muốn tránh xa.
Chọn ưu tiên gì?
Vấn đề của người giàu khác với người nghèo, vậy lâu nay chính sách phát triển kinh tế xã hội đã cân bằng hợp lý quan tâm đến người nghèo chưa?
Ví như người giàu và người nghèo đều có nhu cầu về nhà ở, nhưng lâu nay do những yếu kém trong quản lý quy hoạch xây dựng nên xảy ra tình trạng xây rồi bỏ không để cỏ mọc hàng vạn căn nhà cao cấp, trong khi hàng triệu lao động nghèo không có nhà ở.
Người giàu thì quan tâm tới thú vui tinh thần trong khi người nghèo lo lắng cho những vấn đề cấp thiết.
Nếu đánh giá theo tính chính đáng và cấp thiết thì thật bất công khi bỏ ra hàng trăm tỷ để xây sân bóng hay nhà hát trong khi dân nông thôn không có nước sạch để dùng.
Mặc dầu vậy trong hầu hết các trường hợp mong muốn của người giàu hay người nghèo đều chính đáng, trong khi nguồn lực quốc gia lại có hạn.
Khi đó đánh giá mỗi vấn đề đặt ra không phải là đúng hay sai mà là trước hay sau.
Sân bóng hay nhà hát cũng tốt nhưng phải lo nước sạch cho dân đã vì nó cấp thiết hơn.
Và đòi hỏi ở người quyết sách phải có được năng lực tầm nhìn để thấy được những vấn đề cần ưu tiên giải quyết trước.
Đây là vấn đề cốt yếu nhất đòi hỏi ở giới lãnh đạo, bởi lẽ bây giờ người ta không ngu để đưa ra những đòi hỏi phi lý mà ngược lại ai cũng khôn ngoan đưa ra lý do bao biện cho bất kỳ một đề án nào.
Có thể khảo sát vấn đề xây dựng sân bay Long Thành làm một ví dụ.
Những người ủng hộ dự án này đã đưa ra hàng loạt lý do về sự cần thiết, nhưng khi gạt bỏ đi những lời lẽ đao to búa lớn khoa trương thì thấy rằng đây là dự án cho người giàu.
Người nghèo còn xa mới hưởng lợi từ dự án đó trong khi ngay trước mắt họ có nhiều vấn đề cấp thiết hơn.
Mặc cho số lượng người sử dụng dịch vụ hàng không tăng lên hàng năm thì xin hỏi rằng thực chất có bao nhiêu người gặp vướng mắc để thấy được nhu cầu cấp thiết phải xây thêm sân bay mới?
Số đó so với số dân chưa bao giờ đi máy bay hoặc số khách đi máy bay nhưng không thấy sự cần thiết phải xây thêm một sân bay mới, số nào lớn hơn số nào?
Và nếu vấn đề giải quyết được cân nhắc tính toán dựa trên sự đem lại lợi ích cho đa số thì khi đưa ra biểu quyết liệu dự án có được thông qua không?
Quay lại vấn đề tội phạm
Tội phạm nói chung và tội phạm xâm phạm trật tự xã hội nói riêng có thể nhận định phần lớn xuất phát từ tầng lớp dân nghèo.
Sống trong cảnh nghèo người ta có ít cái để mất và sẵn sàng làm liều hơn là cảnh giàu.
Và khi thấy mình khó thoát vũng lầy tối tăm do không có ánh sáng niềm tin vào chính sách thì người ta sẽ cùng quẫy để mong thoát thân nhưng không ngờ lại chìm đắm nhanh hơn.
Sự cân bằng trong chính sách đầu tư phát triển sẽ giúp giảm thiểu những người bị bần cùng và mất niềm tin.
Cũng có nghĩa rằng từ bất công mà sinh ra tội phạm.
Rất nhiều người già ở nông thôn không còn khả năng lao động nhưng cũng không có thu nhập, vậy chính quyền có quyết sách gì chăm lo cho họ?
Người nông dân giờ bỏ ruộng rất nhiều vì thu nhập từ đồng ruộng quá ít ỏi, chính quyền có chính sách gì giải quyết vấn đề việc làm cho nông dân?
Đám thanh niên ở nông thôn chiếm số lượng rất lớn cần có việc làm và thu nhập, chính quyền có chính sách gì để xử lý thay vì để họ chìm đắm vào bia rượu và thể hiện mình bằng cách đánh nhau?
Và khi trí thức lên tiếng về các vấn nạn kinh tế xã hội thì đừng tìm cách bắt bớ họ theo các điều luật phi dân chủ, hoặc nếu không có cớ để làm thế thì quay ra thủ tiêu ám hại.
Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả, giám đốc Công ty luật Công chính có trụ sở ở quận Đống Đa, Hà Nội
Những kẻ không lương tâm không bao giơ sám hối!
BAO GIỜ THÌ LÃNH ĐẠO CSVN SẼ TẠ LỖI VỚI ĐỒNG BÀO, TỔ QUỐC VÀ LỊCH SỬ?
-Nguyễn thiếu Nhẫn -
Trong bài “Hiện tượng sám hối”, Mặc Lâm, biên tập viên đài RFA đã phỏng vấn nhà văn, nhà phê bình Trần Mạnh Hảo về hiện tượng những lãnh đạo cao cấp của Đảng Cộng Sản Việt Nam lên tiếng phủ nhận những gì mà họ theo đuổi trong suốt hơn nửa thế kỷ qua.
Theo nhà văn Trần Mạnh Hảo thì: “Ông Phó Thủ Tướng Trần Phương là một người cũng đã tận tụy đi theo cách mạng. Làm đến Phó Thủ Tướng nhưng khi các ông ngồi lại để góp ý cho đảng thì ông ấy nói rằng cuộc đời trong mỗi cá nhân để vượt qua những sự kiện quan trọng trong đời mà cứ phải nói dối người thân, nói dối gia đình, nói dối mọi người đến mấy lần thì đến khi về già đã thấy ngượng, thấy xấu hổ lắm. Nhưng Đảng Cộng Sản của chúng ta từ khi sinh ra đến giờ toàn nói dối mà không biết tại sao đảng không biết ngượng, không biết xấu hổ,không biết sám hối”.
Thực ra, không phải tới bây giờ mới có những nhận xét “động trời” này! Những chuyện lãnh đạo Đảng CSVN nói dối không biết ngượng miệng đã xảy ra từ thời “con trăn miền Bắc” chưa nuốt trọn “con nai miền Nam” rồi bị bội thực “xã hội chủ nghĩa theo định hướng kinh tế thị trường” cho tới nay.
Trước ông Phó Thủ Tướng Trần Phương rất lâu, bác sĩ Nguyễn Khắc Viện, người cộng sản gạo cội, con cưng một thời của Đảng CSVN đã phải nhận xét rằng người Cộng Sản bị phân đôi:
“Ngồi với nhau thì trao đổi chân thật, thì nói một đàng; mà khi họp lại bàn bạc, viết lên báo chí thì lại nói một nẻo. Trong mỗi người Cộng Sản có hai con người: con người thật và con người giả. Làm sao có thể xây dựng một xã hội mới với những con người giả. Làm sao có thể xây dựng một cái gì tốt đẹp và bền vững trên một nền tảng giả?”
Nhận xét của “ông bác sĩ cộng sản” Nguyễn Khắc Viện đem áp dụng vào “ông nhà thơ cộng sản” Tố Hữu thì không sai một chút nào: Chính ông ta đã là người đã làm cho bao nhiêu cuộc đời của những văn nghệ sĩ dính líu vào vụ Nhân văn - Giai phẩm bị “rạn vỡ. bị ruồng bỏ và bị lưu đày”; nhưng về cuối đời thì ông ta lại nói những lời “nhân nghĩa bà Tú Đễ” khiến ai nghe cũng muốn ứa gan và khinh bỉ về chuyện nói láo trắng trợn không biết ngượng của một kẻ đã từng “hét ra lửa, mửa ra khói” đối với những trí thức và văn nghệ sĩ hàng đầu miền Bắc.
Không ai tố cáo chồng chính xác bằng vợ. Người cộng sản tố cáo người cộng sản thì chắc chắn phải là sự thật. Ông Bùi Quang Triết, tức cố nhà văn Xuân Vũ là người miền Nam tập kết ra Bắc, sau khi thấy rõ mặt thật của thiên đường xã hội chủ nghĩa do “Bác” Hồ xây dựng, nhà văn bèn “tung cánh chim tìm về tổ ấm”. Ông nhà văn “chiêu hồi” Xuân Vũ khi định cư tại Hoa Kỳ đã viết về những nạn nhân của nhà thơ Tố Hữu, người đã từng làm Phó Thủ Tướng của nước Cộng Hoà Xã Nghĩa Việt Nam như sau:
“… Ai cũng biết ở miền Bắc có hai nhà trí thức lớn nhất dân tộc Việt Nam: Đó là cụ Nguyễn Mạnh Tường và cụ Trần Đức Thảo. Cụ Nguyễn được phép sang Paris chơi vài tháng đâu hồi 92 thì phải. Về Hà Nội cụ viết cuốn “Kẻ bị khai trừ”. Người ta hỏi, cụ không sợ bị tù à? Cụ bảo tôi 82 tuổi rồi còn sợ gì?
Cụ Trần cũng được Hà Nội cho sang Paris công tác (gì đó không hiểu - vận động trí thức Pháp và trí thức nước ta chăng?). Ở đây cụ đã nói chuyện trước nhiều loại thính giả. Trong một cuộc nói chuyện cụ bảo: "Chính Mác sai!” Người ta hỏi tại sao? Cụ bảo: “Mác lấy các điểm trong duy tâm luận của Hégel (không phải Angels) ra làm duy vật biện chứng. Duy tâm áp dụng trên trời dù có sai cũng chẳng hại ai, còn duy vật đem ra dùng trên mặt đất sẽ làm chết người. (Mà chết người thật! Chết hàng trăm triệu người chớ không ít). Chỉ vài hôm sau, cụ qua đời.
Ai cũng biết Nhóm Nhân văn - Giai phẩm gồm toàn văn nghệ sĩ ưu tú của dân tộcđi kháng chiến 9 năm trở về Hà Nội, hãy còn chân ướt chân ráo đã quay ra chống Đảng quyết liệt: Hoàng Cầm, Văn Cao, Phùng Quán, Nguyễn Hữu Đang, Trần Dần, Lê Đạt.
Phần lớn là đảng viên. Thế có lạ không?
Tại sao họ không yêu Đảng của họ nữa? Hỏi tức là trả lời vậy. Nhạc sĩ Văn Cao vừa mới qua đời. Trước khi nhắm mắt, ông nói: "Bây giờ tôi không còn sợ gì nữa. Tôi cứ nói…. Tố Hữu đã ‘phạt’ tôi 30 năm không sáng tác được gì”.
Đau đớn cho ông là năm 1994, trong một buổi lễ phát phần thưởng về âm nhạc, ông được xếp hạng 13 (gần hạng bét) đáng lẽ phải là hạng nhất, không có hạng 2 đến hạng 10.
Trên đây tôi vừa liệt kê một vài trường hợp trí thức văn nghệ sĩ xã hội chủ nghĩa chống Đảng, thà chịu khổ nhục nhận “hình phạt đày ải” của đảng Cộng sản, chớ không thay đồi thái độ với nó kể từ khi họ bắt đầu "ghét” Đảng. Nhìn kỹ lại không thấy ai nói “ghét” thành “yêu” đối với CS bao giờ. Những người trước kia yêu, nay cũng ghét Đảng. Khi đọc những bài tường thuật về các buổi nói chuyện của cụ Trần Đức Thảo ở Paris, tôi mới thấy não lòng. Một triết gia độc nhất của Việt Nam được người ngoại quốc kính nể trên thế giới lại không được dùng đúng chỗ ở chính quê hương mình. Phải biết rằng chính cụ cũng mê Mác-xít khi còn ở Paris nên cụ đã xin về Việt Nam để phục vụ đất nước trong công cuộc kháng chiến chống Pháp, xây dựng thiên đàng. Về đến nơi thì than ôi! Thiên đàng đâu không thấy chỉ thấy tang thương địa ngục. Nhiều người đứng ở ngoài xã hội chủ nghĩa cứ tưởng nó là thiên đường. Nhưng khi nhảy vào sống với nó rồi mới biết mặt mũi nó mồm ngang, miệng dọc ra sao. Chừng đó có muốn thối lui cũng không được. Phải dũng cảm ghê gớm mới dứt nổi “đường tơ”. Nếu Mác bảo tôn giáo là thuốc phiện mê hoặc con người thì Mác-xít chính là thuốc độc giết chết con người. Và tác hại vô cùng cho dân tộc nào cưu mang nó. Picasso về già mới trả thẻ đảng. Howard Fast cũng xin ra đảng lúc gần đất xa trời. Phải khó khăn lắm mới nhận ra được mặt thật của nó. Chẳng thế mà dân Liên Xô bị bịp trên 70 năm?
Tôi cũng đã sống 10 năm trên miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Tôi không có lý luận như cụ Trần, nhưng bằng cảm tính nảy ra trong sinh hoạt hàng ngày, trước tiên tôi thấy chủ nghĩa Mác nó kỳ cục. Nếu biết trước nó như thế này thì không ai đi đánh Tây làm gì. Bởi vì như Nguyễn Chí Thiện nói (đại ý):
“So với Đảng thì móng vuốt Thực dân êm dịu gấp 10 lần!”
Nhưng đã lỡ nhúng chàm rồi, có nhiều người đành cam chịu, không nói ra, để cho những người hậu tiến mắc lầm như mình. Dại rồi nên ngừa cho người khác đừng dại như mình.
… Người Cộng Sản hễ nói là nói láo. Nhưng trước đây vẫn có nhiều người tin. Tin rằng chính sách hợp tác xã, tổ chức quốc doanh đều tuyệt vời, tin rằng Liên Xô là số dách. Nay thì dân chúng đã thấy rõ giữa miền Bắc và miền Nam ai hơn ai, giữa Liên Xô và Hoa Kỳ ai đi trước ai (những 50 năm).
Tất cả nhân loại đều đã bừng mắt trước một sự thực vô cùng rõ rệt: chủ nghĩa Cộng sản chỉ là một sự ngu xuẫn và chính những kẻ theo đuổi nó gần 1 thế kỷ nay cũng không hiểu nó là cái gì…”
*
Nhà thơ cộng sản Tố Hữu đã chết!
Nhà văn Xuân Vũ “tay trót nhúng chàm” theo cộng sản - như lời tự thú của ông, sau đó đã từ bỏ thiên đường cộng sản, đã chết! Những người trong nhóm Nhân Văn - Giai phẩm mà cuộc đời của họ đã bị ông Tố Hữu làm cho “rạn vỡ, bị ruồng bỏ và bị lưu đày” cũng đã chết!
Bi thảm nhất là cái chết của ông Nguyễn Hữu Đang, kẻ đã dựng lễ đài để ông Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn. Cả cuộc đời của ông đã bị trù dập đến tận cùng bằng số: “nhà” của ông là một lõm sâu bằng thân mình ông cạnh một khóm tre làng, cứ như là một huyệt mộ của ông ngay khi còn sống. Sinh kế của ông là mỗi ngày đi nhặt các báo thuốc lá để đổi cóc, nhái từ bọn trẻ con trong làng để nấu ăn. Và ông đã sống như thế cho đến khi nhắm mắt lìa đời. Viết đến đây tôi cảm thấy tim mình đau nhói.
“Tôi không biết khóc bao giờ Mà sao giọt lệ ấm bờ mi thâm?
- nói theo cách nói của một nhà thơ nào mà tôi đã quên tên.
Những người trí thức, những văn nghệ sĩ của chế độ, đã góp phần xây dựng chế độ ngay từ đầu mà còn bị ruồng bỏ, bị trừng phạt thê thảm, khủng khiếp đến như thế thì còn nói gì đến những người đã từng đối đầu với chế độ!
*
Hình như nói dối là cái “gen” di truyền từ ông Hồ Chí Minh đến các lãnh tụ thừa kế của Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Người thừa kế xuất sắc cái “gen” nói dối di truyền của “Bác” Hồ là nhà thơ Tố Hữu - nói dối không biết ngượng miệng, nói dối không chớp mắt, nói dối cứ như thiệt!
Cái “gen” nói dối của “Bác” Hồ, của cố Phó Thủ Tướng Tố Hữu đang di truyền qua Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng, Chủ Tịch Nước Trương TấnSang và Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng.
Ông nói chống tham nhũng thì lại là Vua Tham Nhũng!
Ông thì tuyên bố “trừ sâu trong nồi canh”; nhưng chắc chắn là sẽ có hàng trăm bầy sâu do ông ta… đẻ ra vì ông ta là Vua Sâu Bọ!
Và ông Tổng bí thư “Mạc”Phú Trọng thì lúc nào cũng lăm le tự trói tay, trói chân quỳ lết đem giang san gấm vóc của tổ tiên đem dâng cho giặc phương Bắc để giữ vững ngai vàng!
*
Trong tác phẩm “Darkness At Noon” (tạm dịch Bóng Tối Giữa Trưa) của Arthur Koestler có nhân vật Rubakov - lãnh tụ đảng CS - lúc sắp bị hành quyết về tội phản đảng đã quỳ xuống sám hối và tạ lỗi. Không tạ lỗi với Đảng, với Nhà Nước, với chủ nghĩa Mác-Lê. Mà tạ lỗi với đồng bào, với tổ quốc, với lịch sử!
Bao giờ thì lãnh đạo đảng CSVN sẽ quỳ xuống sám hối và tạ lỗi với đồng bào, với tổ quốc, với lịch sử?!