Trang chủ :: Tin tức - Sự kiện :: Website tiếng Việt lớn nhất Canada email: vietnamville@sympatico.ca :: Bản sắc Việt :: Văn hóa - Giải trí :: Khoa học kỹ thuật :: Góc thư giãn :: Web links :: Vietnam News in English :: Tài Chánh, Đầu Tư, Bảo Hiểm, Kinh Doanh, Phong Trào Thịnh Vượng :: Trang thơ- Hội Thi Nhân VN Quốc Tế - IAVP :: Liên hệ
     Các chuyên mục 

Tin tức - Sự kiện
» Tin quốc tế
» Tin Việt Nam
» Cộng đồng VN hải ngoại
» Cộng đồng VN tại Canada
» Khu phố VN Montréal
» Kinh tế Tài chánh
» Y Khoa, Sinh lý, Dinh Dưỡng
» Canh nông
» Thể thao - Võ thuật
» Rao vặt - Việc làm

Website tiếng Việt lớn nhất Canada email: vietnamville@sympatico.ca
» Cần mời nhiều thương gia VN từ khắp hoàn cầu để phát triễn khu phố VN Montréal

Bản sắc Việt
» Lịch sử - Văn hóa
» Kết bạn, tìm người
» Phụ Nữ, Thẩm Mỹ, Gia Chánh
» Cải thiện dân tộc
» Phong trào Thịnh Vượng, Kinh Doanh
» Du Lịch, Thắng Cảnh
» Du học, Di trú Canada,USA...
» Cứu trợ nhân đạo
» Gỡ rối tơ lòng
» Chat

Văn hóa - Giải trí
» Thơ & Ngâm Thơ
» Nhạc
» Truyện ngắn
» Học Anh Văn phương pháp mới Tân Văn
» TV VN và thế giới
» Tự học khiêu vũ bằng video
» Giáo dục

Khoa học kỹ thuật
» Website VN trên thế giói

Góc thư giãn
» Chuyện vui
» Chuyện lạ bốn phương
» Tử vi - Huyền Bí

Web links

Vietnam News in English
» Tự điển Dictionary
» OREC- Tố Chức Các Quốc Gia Xuất Cảng Gạo

Tài Chánh, Đầu Tư, Bảo Hiểm, Kinh Doanh, Phong Trào Thịnh Vượng

Trang thơ- Hội Thi Nhân VN Quốc Tế - IAVP



     Xem bài theo ngày 
Tháng Mười 2025
T2T3T4T5T6T7CN
    1 2 3 4 5
6 7 8 9 10 11 12
13 14 15 16 17 18 19
20 21 22 23 24 25 26
27 28 29 30 31    
   

     Thống kê website 
 Trực tuyến: 9
 Lượt truy cập: 27791728

 
Văn hóa - Giải trí 13.10.2025 03:50
Tuyên Cáo Lên Án: Chính Sách Trả Thù và Tàn Bạo của Cộng Sản Việt Nam Sau 1975
03.10.2025 09:03

Bài viết "Những sự thật cần phải biết (phần 7): Lê Duẩn và sự tàn ác với quân dân cán chính Việt Nam Cộng Hòa" của Đặng Chí Hùng đã phanh phui một chương đen tối và đầy tủi nhục trong lịch sử dân tộc sau năm 1975: chính sách trả thù man rợ của Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Lê Duẩn, đối với những người thuộc chế độ VNCH. Đây là một sự thật không thể che giấu, là vết thương sâu sắc khắc vào lương tri và danh dự của dân tộc Việt Nam.


Lời Lên Án Mạnh Mẽ: Tội Ác Tàn Bạo Và Độc Ác Chống Lại Quân Dân Cán Chính Việt Nam Cộng Hòa

Những sự thật cần phải biết (phần 7): Lê Duẩn và sự tàn ác với quân dân cán chính Việt Nam Cộng Hòa.

Đặng Chí Hùng (Danlambao) - Quá khứ đã trôi qua gần 40 năm , tuy nhiên quá khứ đó vẫn là nỗi đau với nhân dân Việt Nam nói chung và quân dân cán chính Việt Nam Cộng Hòa nói riêng. Vết thương không thể lành lặn nếu đảng cộng sản vẫn tiếp tục xúc phạm danh dự của quân dân Việt Nam Cộng Hòa và đàn áp nhân dân Việt Nam. Tôi viết bài này chỉ xin góp một tiếng nói chân thật của lịch sử nhằm phanh phui tội ác của Lê Duẩn và cộng sản Việt Nam, để như một nén hương với người đã khuất trong lao tù cộng sản hay tri ân những ai đã vì tự do mà phải chịu đọa đày trong ngục tù cộng sản.

Như trong “Những sự thật cần phải biết 6”, bài Lê Duẩn: Kẻ đồng mưu với Hồ Chí Minh tàn sát nhân dân Mậu Thân 1968, tôi đã trình bày với bạn đọc tội ác của Lê Duẩn trong việc đồng mưu cùng Hồ Chí Minh tàn sát hàng nghìn người dân Huế vô tội tết mậu thân 68. Trong khuôn khổ bài này, tôi xin trình bày về tội ác tiếp theo của Lê Duẩn trong việc trả thù tàn bạo đối với quân dân cán chính Việt Nam Cộng Hòa sau năm 1975. Đây là một trong những tội ác không thể bỏ qua vì nó là một trong bốn nhóm tội ác được dự liệu tại Đạo Luật Rome (The Rome Statute) và thuộc quyền xét xử của Toà Án Hình Sự Quốc Tế (The International Criminal Court, viết tắt là ICC).

Trên thực tế , những ai là quân dân, cán chính Việt Nam cộng hòa sau khi bị bị cộng sản đưa vào tù đều thấy điều này. Ngoài ra, gia đình họ bị cộng sản bức hại đi lên vùng kinh tế mới, con em bị ghi lý lịch xấu, nhà của bị tịch thu là những nỗi thống khổ của những quân dân cán chính VNCH. Trong khuôn khổ bài viết này, tội ác của Lê Duẩn và đảng cộng sản đối với quân dân, cán chính Việt Nam cộng hòa trong lao tù của cộng sản.

I. Cả nước Việt Nam là một trại tù khổng lồ : 

Thứ nhất, ngày Thứ Hai, 23/7/2007, Website của The Wall Street Journal, nhà báo James Taranto đã trích dẫn cuộc điều tra quy mô của nhật báo Orange County Register được phổ biến trong năm 2001 về “học tập cải tạo” tại Việt Nam và đã kết luận rằng: "Ngay sau khi xâm chiếm VNCH, cộng sản đã đưa một triệu quân dân cán chính VNCH vào tù vô thời hạn - dưới cái nguỵ danh học tập cải tạo – trong ít nhất là 150 trại tù được thiết lập trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam kể cả những nơi rừng thiêng nước độc với khí hậu khắc nghiệt. Theo Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, đại đa số những người này đã bị giam cầm từ 3 tới 10 năm và có một số người đã bị giam giữ tới 17 năm. Nếu lấy con số trung bình là bẩy năm tù cho mỗi người, số năm tù của một triệu người là 7,000,000 năm.” 

Đây là một tội ác hình sự mang tính lịch sử của đảng cộng sản cộng sản và những người đứng đầu đảng cộng sản. Nó xứng đáng được được đưa vào cáo trạng mà chúng tôi đang thực hiện nhằm đưa tội ác của Hồ Chí Minh và đảng cộng sản ra trước ánh sáng công lý.

Cũng theo cuộc điều tra nói trên cho biết: “Cứ mỗi ba gia đình tại Miền Nam, có một gia đình có người phải đi tù cải tạo. Và trong số một triệu người tù kể trên, đã có 165,000 người chết vì bị hành hạ, tra tấn, đánh đập, bỏ đói, lao động kiệt sức, chết vì bệnh không được chữa trị, bị hành quyết… Cho tới nay, hài cốt của 165,000 nạn nhân này vẫn còn bị Việt Cộng chôn giấu trong rừng núi, không trả lại cho gia đình họ. Hiện nay chỉ có Việt Cộng mới biết rõ tên tuổi các nạn nhân cùng nơi chôn giấu hài cốt của họ. Đây là tội ác thủ tiêu mất tích người, một tội ác chống loài người đã và đang diễn ra tại Việt Nam suốt 35 năm nay mà thủ phạm là Lê Duẩn…”.

Thứ hai, trong tập tài liệu ghi bí số TN/QP-14 được lưu chiểu ngày 14/02/1977 tại cục lưu trữ Bộ Quốc Phòng Cộng sản ghi rõ như sau tại trang số 6: "Tổng số tù nhân tham gia học tập cải tạo để trở thành con người mới sau khi chế độ Sài Gòn đầu hàng là 1.321.506 người. Trừ những số trốn trại, bị chết trong lúc cải tạo và già yếu trả về với gia đình , bộ quốc phòng giao lại cho bộ nội vụ quản lý là 1.236.569 người".

Qua tài liệu nói trên của nhà nước cộng sản nói lên điều gì? Đó là họ đã coi những quân dân cán chính Việt Nam cộng hòa là những “Tù nhân”. Trên thực tế, họ không phải là tù nhân vì theo như cộng sản tuyên truyền họ chỉ đi học tập chủ trương đường lối của “cách mạng”. Nhưng chính tài liệu của cộng sản đã coi họ là tù nhân.

Ngoài ra con số người mà đảng cộng sản cho biết chính là con số nói lên thực tế về trại tù khổng lồ mà cộng sản cùng Lê Duẩn bày ra nhằm trả thù quân dân cán chính VNCH.

Thứ ba, theo tài liệu của Viện Bảo Tàng Việt Nam tại San Jose ghi nhận số lượng tù cải tạo thực sự đều là tù chính trị như sau: “Năm 1975 QLVNCH có 980.000 quân nhân gồm 1/10 cấp Tá và cấp Tướng tổng cộng 9.600, cấp úy là 80.000, còn lại là hạ sỹ quan và binh sĩ . Binh sĩ VNCH bị bắt đi cải tạo sau ngày 30 tháng 4, 1975.AFP/Getty Images – Cấp Tướng tại ngũ đến 30 tháng 4 năm 75 là 112; bị tù cải tạo: 32 vị, 80 tướng lãnh di tản và 1 số nhỏ không bị bắt giam. – Ðại tá có 600, bị tù 366. – Trung tá có 2.500, bị tù 1.700. – Thiếu tá có 6.500, bị tù 5.500. – Cấp úy có 80.000, bị tù 72.000. Trong số này bao gồm cả nữ quân nhân cũng như thành viên đảng phái và các cấp chính quyền. Ðây là con số ghi nhận được từ phía Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa, không có tài liệu của các trại giam phía cộng sản để đối chiếu; và không có con số chính xác tù cải tạo bị chết trong khi giam cầm”.

Như vậy, mặc dù do thất lạc khi rút bỏ Miền Nam, cộng với những thống kê những người chết do cộng sản đạo đày trong tù thì những con số mà Viện Bảo tàng cũng cho thấy cộng sản đã biến cả nước Việt Nam thành một địa ngục tù ngục trong chính sách trả thù man rợ của mình đối với những ai liên quan đến VNCH.

Thứ tư, để thừa nhận thêm về chính sách bỏ tù quân dân cán chính VNCH, cũng cần phải nhắc lại đảng cộng sản Việt Nam chủ trương theo chủ nghĩa cộng sản độc tài của Liên Xô và Trung Cộng. Hồ Chí Minh khi đem chủ nghĩa cộng sản vào Việt Nam chủ trương làm tay sai cho quốc tế thứ 3 (Xin xem thêm “Những sự thật không thể chối bỏ" phần 4,10,11,12) và làm con tốt thí trong tay sai Liên Xô. Những tư tưởng của Lê Nin đã được Hồ Chí Minh truyền thụ cho đàn em của mình trong việc trả thù những ai bất đồng chính kiến, trong trường hợp này là quân dân quán chính VNCH. Vì vậy nhìn lại Việt Nam sau năm 1975 như một trại tù khổng lồ của cộng sản không có gì là điều lạ lùng . Hãy đọc cuốn “Lê Nin và Xã hội chủ nghĩa" xuất bản tại Liên Xô dày 820 trang, tại trang 233 có viết: 

"Chiếm được một tỉnh, giải phóng được một nước thì dễ nhưng giữ yên được đất nước, địa phương ấy mới là khó. Muốn vậy sau khi chiếm được lãnh thổ, trước hết phải tập trung giam giữ lâu dài bọn phản động, thành phần làm việc cho chế độ cũ, chỉ khi nào ổn định được xã hội, nắm vững tình hình an ninh nội chính mới thả chúng về”.

Và cũng là sư phụ của Hồ Chí Minh cũng như Lê Duẩn sau này không quên nói thêm: "Bọn này gồm những tên đầu đường xó chợ, đói khát rách rưới, Vô sản lưu manh rất nguy hiểm, chúng là kẻ thù số một của chuyên chính vô sản vì dễ bị bọn phản động mua chuộc, chúng cần bị giam giữ, loại trừ”(Trích cuốn “Lê Nin tuyển tập và Bản tuyên ngôn đảng cộng sản” có nói về Vô sản lưu manh.).

Qua đây chúng ta có thể thấy, việc cộng sản Việt Nam học tập tư tưởng của Lê Nin nhằm trả thù man rợ quân dân cán chính Việt Nam cộng hòa cũng là điều hết sức thường tình đối với bản chất của cộng sản.

Thứ năm, trong cuốn sách có tên “Đối nghịch” của tác giả J. Leroy - một nhà hoạt động xã hội người Pháp và cũng là đảng viên đảng cộng sản Pháp (giới thiệu ở bài “Những sự thật không thể chối bỏ - phần 14 - Ai làm cho Huế đau thương?”). Cuốn sách của ông đi sâu phân tích về tính chất đối lập của đảng cộng sản và các đảng phái khác và dẫn chứng về cuộc chiến Việt nam như là một sự đối nghịch đỉnh điểm về ý thức hệ. Trong trang 202 của cuốn sách in năm 2000 tại Pháp có nội dung trích như sau: “Sau ngày 30/4/1975, tư tưởng của Mác, Lê Nin đã hoàn toàn làm chủ cả Việt Nam. Hàng triệu người theo chế độ cũ do người Mỹ giúp đỡ đã phải vào tù theo lệnh cải tạo của nhà nước Việt Nam”. 

Cuốn sách này cho thấy người cộng sản Pháp đã phải công nhận có hàng triệu người quân dân cán chính Việt Nam cộng hòa bị cộng sản đẩy vào tù để phục vụ cho mục đích trả thù những ai không theo cộng sản độc tài.

II. Trả thù man rợ :

Từ sau năm 1975 đến nay, nhà nước cộng sản Việt Nam, đã thi hành chính sách bắt những người là quân dân cán chính đi cải tại các trại tập trung. Thực chất là đi tù. Khi ra khỏi trại thành kẻ tứ cố vô thân. Rồi chính sách cải tạo công thương nghiệp làm cho nhiều người điêu đứng phải vượt biên... Rồi trấn áp, bắt bớ người vượt biên. Một số địa phương ven biển còn lợi dụng “bắt vượt biên” để trấn vàng, trấn của… Những thương phế binh VNCH thì bị đẩy ra lề đường.

Để nói lên thực tế này, ngay một tờ báo cộng sản đã phải thừa nhận sự thật này . Xin trích dẫn đến bạn đọc đoạn viết trên Tuần Vietnamnet: "Anh tên Ngô Công Vò, quê xã Thủy Phù, Hương Thủy, Thừa Thiên - Huế, đi lính cho chế độ Sài Gòn năm 1970… So với nhiều anh em lính chế độ cũ, tôi còn may mắn hơn nhiều. Nhưng cuộc sống vẫn vất vả lắm. Anh em thương binh phía Bắc còn có chế độ, chứ chúng tôi chẳng có gì, làm việc quần quật mà chẳng đủ nuôi vợ con. Công việc của gia đình anh Vò chủ yếu làm ruộng, và ai thuê gì làm nấy. Công việc khá thường xuyên của anh là lấy đất thải san ủi nền nhà, và cả tháo gỡ những quả bom mìn còn sót lại trong vùng đem bán. Công việc vất vả, mạo hiểm đủ để tùng tiệm cuộc sống”. (Links của bài báo : http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/2012-04-27-hoa-hop-dan-toc-va-su-hoi-sinh-tu-noi-dau).

Còn đối với những người bị giam trong tù thì ra sao? Xin điểm lại một số chứng cứ để thấy cộng sản đã đối xử với quân dân cán chính Việt Nam cộng hòa như thế nào.

Trên thực tế,quân dân cán chính Việt Nam cộng hòa được thông báo: "Công chức trung ương từ Chánh sở, địa phương từ trưởng ty, phó quận cho tới Tổng thống; sĩ quan cảnh sát từ thiếu tá trở lên; các thành phần đảng phái, nhân viên tình báo ra trình diện học tập tại trường Gia Long…, mang theo quần áo, lương thực.. đủ dùng trong một tháng”.

Khoảng hơn một năm sau ngày nhập trại, bộ nội vụ bèn gom tù lại, ra Chính sách 12 điểm, tất cả học viên thành tù hết, án phạt ba năm… do Công an quản lý, đối xử hà khắc, bắt lao động cực nhọc, giai đoạn này cho ăn đói, mỗi bữa chỉ có vài củ khoai và một hai bát bo bo… rồi nhiều người bị đẩy ra những trại tù ở miền Bắc như: Hoàng Liên Sơn, Cổng Trời, Thanh Hóa, Hà Nam Ninh…

Những người bị giam ở trong nam thì còn đỡ khổ vì có gia đình thăm nuôi vả lại miền nam khá hơn miền Bắc, những người bị đưa ra Bắc vô cùng thê thảm, đói khát, lạnh lẽo, bệnh tật, làm việc quá sức.. nhiều người chết bỏ xác miền Bắc hoặc hóa ra thân tàn ma dại. Sĩ quan cấp thiếu úy, những người quá trình nhẹ hoặc có thân nhân là cán bộ bảo lãnh phần nhiều được về trong vòng ba năm, cấp trung úy hoặc ty sở trưởng, những người có liên hệ an ninh tình báo thường là được về sau 5 hay 6 năm... Trong thời gian đó, cộng sản hành hạ quân dân cán chính VNCH hết sức tàn tệ:

Thứ nhất, sau ngày 30/04/75, mọi người đều e ngại về một cuộc tàn sát trả thù đẫm máu vì đã có những lời đồn đại về hành động này. Nhưng cộng sản đã nghĩ ra một giải pháp thâm độc và tránh được sự lên án của Quốc tế đó là giam cầm và hành hạ quân dân cán chính VNCH. Quân cán chính Việt Nam Cộng Hòa đã được khuyến dụ trình diện để “học tập” ngắn hạn. Gọi là “tìm hiểu đường lối, chính sách của nhà nước và để gột bỏ tàn tích chống phá cách mạng khi xưa”. Chính quyền mới hứa là thời gian học tập chỉ vài tháng rồi ai nấy trở về với gia đình, phục vụ đất nước.

Nhưng thực ra đây là một sự tù đầy, tẩy não, hành xác. Có người vài ba năm. Rất nhiều người mươi năm. Và số người triền miên tù đầy gần hai chục năm cũng không ít. Lại còn một số đáng kể chết mất xác trong tù đầy hành hạ. Người sống sót trở về đã kể lại nhiều thảm cảnh mà họ phải gánh chịu trong thời gian đau khổ ấy. Những thảm cảnh mà nghe lại ai cũng rùng mình. 

“Rồi mai đây, nếu vì may mắn nào đó, tôi được sống trong môi trường khác, tôi có bổn phận phải nhớ và nhớ thật kỹ tất cả những gì đã xẩy ra, đã khắc xâu vào tâm khảm tôi những chứng tích khổ đau, hờn hận!”, (Tạ Tỵ - Đáy Địa Ngục, trang 152.).

Người tù bất khuất Tạ Tỵ đã mô tả cảnh đói khát trong nhà tù cộng sản hết sức kinh khủng vì có lẽ bỏ cho đói khát là chính sách để kiềm chế, kiểm soát người tù. Nên bất cứ tù nhân nào cũng nói rất nhiều về sự hành xác này.

“Đã hơn hai tháng nay, chúng tôi không được ăn miếng thịt nào. Lao động mỗi ngày 8 tiếng, toàn việc nặng. Cơm không có, mỗi ngày lãnh hai chiếc bánh mì luộc, mỗi cái khoảng 200 gram và một nửa chiếc bánh buổi sáng 50gram, như vậy chúng tôi chỉ được ăn 450 gram chất bột với muối, không có chất béo, chất rau và chất đạm nào! Do đó, ai nấy đều gầy rộc hẳn, da khô khốc. Trên nguyên tắc theo giấy tờ chúng tôi được ăn 18 kí lô chất bột, 300 gram thịt mỗi tháng, nhưng thực tế chúng tôi chỉ được ăn 13 kí 500 chất bột”, (Đáy Địa Ngục -Tạ Tỵ trang 378- 379.).

Thứ hai, Linh Mục Nguyễn Hữu Lễ là một trong những người đã chứng kiến cảnh tượng đó. Và ông đã mô tả chân thực cuộc sống của nhà tù cộng sản giành cho quân dân cán chính VNCH. Chật chội, ngột ngạt hơi người, mùi hôi của mọi người, mọi bệnh riêng của mỗi người, cả tháng không tắm. Cả ngàn người có một giếng nước, kéo một lúc đã cạn nước, nhiều khi có chuột bọ chết thối trong giếng. Ăn uống vào là bị kiết lỵ. Đi cầu vào các dẫy hố đào trên mặt đất…

“Cả trại nhốn nháo về bệnh kiết lỵ. Hầu như không khu nào thoát. Chưa bao giờ buổi sáng lại đông người chờ đi cầu như vậy. Mặt mũi người nào cũng nhăn nhó, mệt mỏi trông thật thảm hại... Thật đau khổ, lúc nào bụng cũng quặn đau, mỗi lần đi cầu són ra một chút, phân ít, mũi máu nhiều. Từ nơi tôi ở ra nhà cầu khá xa. Để tiện việc, tôi không về nhà, ngồi ngay ở căn nhà chiếu Tivi sẵn sàng chạy ra hố cầu khi cần. Không phải mình tôi như vậy mà hàng chục người tay cầm lon nước, ngồi bệt xuống mặt cát. Bệnh của tôi kéo dài cả tuần sau khi uống cả lọ tetracycline do Lan cho. Trong thời gian kỷ luật chúng tôi được xuống sông tắm mỗi hai tuần một lần. Tuy nhiên nhiều khi cán bộ bận hay có việc gì bất thường thì phải chờ lâu tới ba tuần”, (Tầng Ðầu Địa Ngục - Linh Mục (LM) Nguyễn Hữu Lễ.).

Và cùng đó là cảnh thiếu thốn: “Điều quan trọng đối với tôi là cái đống rác! Mỗi lần đi ngang đống rác trước cổng trại là mỗi lần đời tôi lên hương. Hai con mắt hoạt động tích cực để tìm nhặt những thứ cần thiết cho cuộc sống trong buồng như vải rách dùng đại tiện, bọc nylon làm nhiên liệu chất đốt, hoặc may mắn hơn thì cái bàn chải đánh răng cũ hoặc ít giấy bao xi măng làm vở viết chữ Tầu, thứ ngôn ngữ tôi đang cố học”, (Tầng Ðầu Ðịa Ngục - LM Nguyễn Hữu Lễ.).

Cùng đó là những hành động bị hành hạ cơ thể:

“Tùy theo mức độ nặng nhẹ khác nhau của các hình thức vi phạm nguyên tắc mà tù nhân bị “đại ca” ra hình phạt tương xứng theo luật giang hồ tù. Nếu chỉ để cảnh cáo và áp đảo tinh thần những lính mới để bắt phải đi vào khuôn phép thì chỉ cần sử dụng “chưởng” tức là đánh bằng hòn đá bọc trong cái vớ hoặc “bẻ ngà” là dùng đá cà hoặc đập gẫy hết cả hai hàm răng. Trường hợp nặng hơn thì “lấy cấp pha” tức là móc đôi mắt, hoặc “ xin cặp nạng” nghĩa là cắt gân gót chân. Trường hợp nghiêm trọng thì đối phương sẽ được “cất” có nghĩa là giết chết”, (Tầng Ðầu Ðịa Ngục - LM Nguyễn hữu Lễ.)


Thứ ba, cũng cần nhắc qua cuốn Đại Học Máu của Hà Thúc Sinh để thấy sự tàn tệ của nhà tù cộng sản đối với quân dân cán chính VNCH như thế nào. Hình ảnh cánh binh cộng sản bắt phạt tù nhân “ngụy” được mô tả như sau: “Nói đến sùi bọt mép mà thấy nét mặt của mười thằng “ngụy” vẫn trơ thổ địa ra, thằng quản giáo cáu quá hét: Tao phạt chúng mày quỳ hai tiếng. Quỳ xuống! Bọn tù chỉ liếc nhìn nhau chẳng ai chịu quỳ. Thằng quản giáo đâu có chịu thua. Hắn móc súng bắn đến đùng một phát. Tránh voi chẳng xấu mặt nào, anh em lần lượt êm ái quỳ. Thằng quản giáo đứng chửi rủa một lúc rồi mới chịu bỏ đi...”, (Đại Học Máu - Hà Thúc Sinh, trang 116). 

Tác giả Hà Thúc Sinh cũng không quên mô tả tình trạng thiếu thuốc men và y tế của cộng sản đối xử với quân dân cán chính VNCH: "Mặt đứa nào đứa nấy trông như những quả dưa bở chín rục, chân tay bụ bẫm vì bị phù do thiếu chất, cứ như những cái xác chết trôi ba ngày, đang xếp hàng dài trước bếp xin chút nước vo gạo về uống với hy vọng mong manh tí chất cám có thể cứu nổi căn bệnh phù thũng trầm kha...”, (Đại Học Máu - Hà Thúc Sinh, tr. 251.).


Thứ tư, cũng có rất nhiều tác giả khác đã từng ngồi tù cộng sản bằng mỹ từ “học tập cải tạo” đã viết lên những khốn khổ trong tù cộng sản mà trong khuôn khổ bài này tôi không thể kể xiết. Xin điểm lại một số điểm chính để bạn đọc thấy rõ bản chất tàn bạo của cộng sản.

Ông Nguyễn Cao Quyền từng là một viên chức cao cấp trong chính quyền VNCH. Tốt nghiệp khóa 1 Trừ Bị Nam Định và khoá 51-53 trường Saint Cyr (Pháp), đỗ cử nhân luật và cao học tiến sĩ kinh tế Đại học Luật khoa Sài Gòn (1963), thẩm phán Tòa Án Quân Sự, Đại tá Chánh thẩm Tòa Án Đặc Biệt (1966-1968), Cố vấn ngoại giao tại Paris (1968-1974), Nha Thông Tin Báo Chí Bộ Ngoại Giao (1974-1975), Sau năm 1975, ông bị đưa đi tù cải tạo (1975-1985), rồi sau đó sang định cư tại Maryland, Hoa Kỳ từ năm 1990. Ông từng là Chủ tịch Khu Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị vùng Hoa Thịnh Đốn, nguyên Phó Chủ Tịch Ngoại Vụ Tổng Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị, nguyên Chủ Tịch Cộng Đồng VN vùng Hoa Thịnh Đốn (1996-1998). Ông còn viết nhiều bài khảo luận về kinh tế, chính trị được phổ biến rộng rãi có viết: 

"Tại trại Thanh Cẩm, chế độ lao động còn khắt khe và nặng nhọc hơn ở trại Quảng Ninh. Dưới mũi súng canh gác của công an gốc dân tộc Mường, chúng tôi phải đi rất xa để lấy cát làm nhà. Mỗi chuyến vừa đi vừa về vào khoảng 3 cây số. Mỗi ngày phải đi ba chuyến mà chỉ đươc ăn có 4 chén cơm với vài cọng rau muống luộc thì sức nào chiụ nổi. Nếu đội nào không đi xe cát thì phải xe đá hoặc vào rừng đẵn luồng vác về cho cán bộ làm nhà. Những người lao động ở trại cưa, trại mộc cũng không sung sướng gì hơn. Cả ngày quần nhau với những cây gỗ lớn, cưa sẻ liên hồi hoặc đục đẽo luôn tay thi lấy năng lượng đâu mà bù đắp. Cuốc đất trồng khoai ngô mới là mệt vì đất núi bạt ngàn mà nhân công thì thưa thớt. Ấy là chưa kể nhũng vụ gánh phân đi bón nặng gẫy sương sườn và chốc lở sương vai.Sức người có hạn còn nhu cầu của trại thì mỗi ngày môt tăng thêm. Bên cạnh những cái chết vì tại nạn lao động như bị đá núi đè, lợp nhà té xuống đất hay bị cây luồng đâm thủng bụng, dần dần người ta thấy xuất hiện những cái chết vì đói, vì thiểu lực. Sau hơn ba năm bị lưu đầy ra Bắc anh em tù nhân chôn nhau, vì chết đói, đã chật cả một phần đồi sắn. Có một thời gian, trong tâm tư và trước mắt mọi người cái chết đã trở thành quen thuộc, không gây sợ hãi và cũng không gây súc động. Tù nhân chờ đợi Thần Chết đến thăm như chờ đợi một sự giải thoát”.
(Links: 


Tác giả Nguyễn Chí Thiệp trong cuốn “trại kiên giam “ nổi tiếng của mình thì viết: "Tiêu chuẩn ngừoi phạm kỷ luật mỗi tháng còn 9 kg lương thực ăn với nước muối, mỗi ngày hai bữa hai chén nhỏ xíu . Cơm mới bỏ vào miệng chưa kịp nhai cái lưỡi đã đưa cơm vào cổĐến bữa ăn phải kềm hãm cố nhai cho thật kỹ, vừa để cho đỡ buồn, cho qua thời giờ có việc làm. Khi nhai thức ăn, vừa phải nhai kỹ để thức ăn ít ỏi và quí báu được tiêu thật hết, khỏi phí phạm, giúp cơ thể bòn từng chút bổ dưỡng để thân xác chịu đựng con người được sống, nhai thật kỹ để chất thải ra thật ít, 5,7 ngày mới đại tiện một lần, vì đại tiểu tiện đều vào cái thùng đại liên để ngay bên cạnh bục nằm, đến lúc đầy tràn trật tự mới đổ đi, nên suốt ngày đêm phải nằm bên cạnh cái của nợ khai thúi đó”. (Nguyễn Chí Thiện - Trại Tù Kiên Giam, trang 35). 

Hoặc: “Hai chân tôi bị còng chéo để bức cung. Còng chéo hai chân bị đóng cứng chặt giữa hai cái còng hình chữ U và thanh sắt xuyên. Vì độ cao của thanh sắt giở hổng hai chân lên thành ra không thể nằm thẳng lưng, vì nằm như vậy thân mình căng ra hai chân bị siết chặt vào sắt đau buốt tận tủy óc. Người bị còng phải dùng hai khuỷu tay để chống hoặc cởi hết quần áo ra chêm ngang thắt lưng mới chịu được một thời gian. Chờ một vài ngày hai cổ chân gầy đi xoay được lật úp thì hai chân sẽ thẳng ra nhưng phải nằm sấp. Nhưng chỉ vài ngày chân đã sưng húp vì ban đêm bị lắc còng điểm danh”, (Trại Tù Kiên Giam - Nguyễn Chí Thiện, tr 473).

Thứ năm, trên thực tế còn rất nhiều bằng chứng từ chính những người bị cộng sản trả thù man rợ. Nhưng còn phe cộng sản nói gì về điều này? Xin giới thiệu cuốn sách “365 ngày ở Việt Nam” của nhóm công tác do Liên Xô chỉ đạo trong năm 1975 tại Việt Nam đã được giải mật năm 2008 (Đã giới thiệu ở “Những sự thật cần phải biết” phần 5) cho biết tại trang 75 như sau: "Những hình phạt của đảng cộng sản Việt Nam giành cho tù nhân chế độ Sài Gòn đã cho thấy những người anh em của chúng ta đã không quên phương pháp mà Xtalin áp dụng...”.

Cuốn sách này còn nói thêm tại trang 82: "Trong một điều kiện khó khăn và kỷ luật hà khắc, chính quyền mới tại nước Việt Nam thống nhất đã thanh lọc rất tốt tư tưởng của những người đi theo Mỹ…”.

Như vậy, ở đây ta có thể thấy, cuốn sách đã chỉ rõ cộng sản Việt Nam học tập phương pháp tàn bạo của kẻ giết người hàng loạt đó Xtalin. Và cuốn sách nhắc đến cum từ “Kỷ luật hà khắc” cho thấy bản chất bạo tàn của cộng sản trong đó có cộng sản Việt Nam áp dụng đối với quân dân cán chính VNCH.

III. Lê Duẩn là đầu xỏ :

Việc trả thù quân dân cán chính VNCH do chủ trương của đảng cộng sản gây ra. Những người trực tiếp thực hiện đó là Võ Văn Kiệt, Trần Văn Trà, Cao Đăng Chiếm… Nhưng chủ trương và phương án này chính là do Lê Duẩn cầm đầu. 

Thứ nhất, Lê Duẩn chính là một người tuy thích thân Liên Xô hơn Tầu nhưng Duẩn cũng học tập chính sách của Hồ Chí Minh trong cải cách ruộng đất. Và chính đảng cộng sản Việt Nam đã thừa nhận điều này: "Cố Tổng Bí thư Lê Duẩn là “người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhà lãnh đạo lỗi lạc của Đảng, người cống hiến trọn đời cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, tiến lên chủ nghĩa xã hội…” (Trích: Thông cáo đặc biệt của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, ngày 11/7/1986).

Và tại thời điểm sau năm 1975, Duẩn với cương vị đứng đầu của nhà nước cũng như đảng cộng sản (Lúc đó có tên là đảng lao động) chính là kẻ đã chỉ đạo và quyết định việc đối xử tàn tệ với quân dân cán chính VNCH.Là kẻ đứng đầu đảng và nhà nước, đương nhiên Duẩn biết điều này và không thể đổ lỗi cho bất kỳ ai: "Ngày 30 tháng 4 năm 1975, Việt Nam Cộng hòa sụp đổ, nước Việt Nam thống nhất. Ngày 16 tháng 5 năm 1975, Bí thư thứ Nhất Đảng Lao động Việt Nam Lê Duẩn đã trực tiếp vào miền Nam nắm tình hình, gồm cả tình hình kinh tế.”

Và: "Năm 1960, tại Đại hội lần thứ III của Đảng, đồng chí được bầu lại và Ban Chấp hành Trung ương vào Bộ Chính trị, giữ chức Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng.Tại Đại hội lần thứ IV Đảng (năm 1976) và lần thứ V của Đảng (năm 1982), đồng chí Lê Duẩn tiếp tục được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị, giữ chức Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng".(Trích bài phát biểu của Nông Đức Mạnh: Báo Điện tử đảng cộng sản Việt Nam 6/4/2007 )

Thứ hai, trong cuốn “Lê Duẩn, Nội dung cơ bản của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”, xuất bản lần 1 tại trang 482 có viết: "Sức mạnh vô địch của cách mạng Việt Nam được tích luỹ qua gần nửa thế kỷ đấu tranh dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, kết tinh cả truyền thống chiến đấu và tài thao lược của tổ tiên ta. Bằng ý chí của chúng ta, những kẻ một thời lầm đường lạc lối theo Mỹ - Ngụy đã được lao động cải tạo để trở thành những công dân có ích cho xã hội mới..”.

Bỏ qua những từ ngữ huyênh hoang quen thuộc của cộng sản để tự lăng xê chính mình. Bỏ qua những mỹ từ “Cải tạo, lao động” thì chúng ta thấy Lê Duẩn đã rất tâm đắc với chủ trương của mình trong việc hành hạ những người là quân dân cán chính VNCH.

Thứ ba, cũng vẫn cuốn sách: “365 ngày ở Việt Nam” của nhóm công tác do Liên Xô chỉ đạo trong năm 1975 tại Việt Nam đã giới thiệu ở phần trên cũng viết tại trang 83: "Đồng Chí Tổng bí thư đảng Lao động Việt Nam Lê Duẩn cùng ban chấp hành trung ương đảng đã tiến hành ổn định nhanh chóng tình hình sau ngày 30/4/1975. Chính sách kỷ luật hà khắc mà nhà nước áp đặt cho những người lính chế độ Sài Gòn đã được chính đồng chí Tổng bí Thư Lê Duẩn đề ra trong một cuộc họp của bộ chính trị…”.

Qua đây có thể thấy, đảng cộng sản mà đứng đầu là Lê Duẩn đã vạch ra kế hoạch “hà khắc” đối với quân dân cán chính Việt Nam cộng hòa. Những hành động đầy tội ác mà tôi đã nêu ra ở phần hai chính là do Lê Duẩn – một đồ tể tay chân của Hồ Chí Minh gây ra.

Thứ tư, ngày 1-11-1978, Lê Duẩn và Phạm Văn Ðồng dẫn đầu một phái đoàn đảng và chính phủ sang Mạc Tư Khoa để cùng Brezhnev ký bản hiệp ước “hợp tác và hữu nghị”, theo đó hai nước sẽ liên minh với nhau cả về chính trị, kinh tế lẫn quân sự. Ðiều 6 của hiệp ước này nói rõ là nếu một trong hai nước bị tấn công, cả hai nước sẽ dùng những biện pháp thích hợp đối phó. Từ đó, Liên Xô đã hết lòng viện trợ cho Việt Nam. Số tiền viện trợ và cho vay lên tới nhiều tỷ Mỹ kim. Bù lại, Việt Nam sẽ để cho Liên Xô sử dụng hải cảng Cam Ranh và có thể Ðà Nẵng làm đầu cầu quân sự để kiềm chế Trung Hoa và đối đầu với hạm đội thứ 7 của Hoa Kỳ trong vùng Thái Bình Dương. Trong cuộc găp với Brezhnev, ngoài báo cáo tình hính quan hệ với Trung cộng, CamPuchia thì Lê Duẩn đã báo cáo: “Cơ bản tình hình trong nước chúng tôi đã ổn định do tôi và các đồng chí trong bộ chính trị không để cho ngụy quân, ngụy quyền có thể nổi lên bằng việc áp dụng mô hình nhà tù như thời đồng chí Xtalin. Chúng tôi chỉ lo lắng là Campuchia đang leo thang khủng bố…”( Trích: "Văn thư lưu trữ của đảng cộng sản Liên Xô trang 422”). 

Vậy không ai khác mà chính Lê Duẩn cùng cộng sản Việt Nam đã đẩy quân dân cán chính VNCH vào lao tù khắc nghiệt.

IV. Kết Luận :

Qua những hành động trả thù man rợ quân dân cán chính Việt Nam cộng hòa của cộng sản nói chung và Lê Duẩn nói riêng cho thấy bản chất của cộng sản là không thay đổi qua các thê hệ từ sau Hồ Chí Minh. Tội ác đó vi phạm công ước về tù binh chiến tranh cũng như luật nhân đạo. Sau nhiều chục năm bị bưng bít bởi chế độ cộng sản toàn trị, đã đến lúc chúng ta cần cho mọi người, đặc biệt là thế hệ trẻ thấy được bản chất tàn bạo của cộng sản.

Trong quá trình phát triển của lịch sử dân tộc, chưa bao giờ dân tộc Việt Nam lại rơi vào thảm cảnh như ngày hôm nay do bàn tay độc ác của cộng sản. Chúng ta cần phải đoàn kết lại để lên án và lật đổ chế độ bán nước hại dân cộng sản Việt Nam. Xin trả lại sự thật lịch sử và danh dự cho những người quân dân cán chính VNCH để tôn vinh họ - Những người anh hùng không chịu khuất phục lao tù cộng sản.

6/6/2013


Việc chính quyền Cộng sản Việt Nam học theo các mô hình độc tài, tàn bạo của quốc tế cộng sản, cụ thể là Liên Xô (Xô Viết)Trung Quốc, để áp đặt lên chính đồng bào mình đã tạo nên một thảm kịch nhân đạo kéo dài hàng thập kỷ.


I. Biến Đất Nước Thành "Trại Tù Khổng Lồ"

Ngay sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, thay vì thực hiện hòa giải dân tộc, nhà cầm quyền Cộng sản đã triển khai một chiến dịch trả thù quy mô lớn dưới danh nghĩa "học tập cải tạo" - thực chất là một hình thức giam cầm và hành hạ vô nhân đạo.

  • Quy mô Giam cầm Khổng lồ: Các tài liệu và thống kê được trích dẫn, bao gồm cả tài liệu mật của Bộ Quốc phòng Cộng sản, cho thấy con số những người bị đưa đi "cải tạo" lên tới hơn một triệu người (1.321.506 người theo tài liệu TN/QP-14). Hàng trăm trại tù đã được thiết lập trên khắp cả nước, bao gồm cả những vùng rừng thiêng nước độc, biến cả nước Việt Nam thành một địa ngục trần gian.

  • Thời gian Tù đày Dài đằng đẵng: Trái với lời hứa "học tập ngắn hạn," đại đa số những người này bị giam giữ từ 3 đến 10 năm, thậm chí có người lên đến 17 năm. Tổng số năm tù đày ước tính lên tới 7 triệu năm – một tội ác hình sự mang tính lịch sử.

  • Thảm cảnh Chết chóc và Mất tích: Con số kinh hoàng 165.000 người đã chết vì bị hành hạ, tra tấn, bỏ đói, lao động kiệt sức, bệnh tật hoặc bị hành quyết. Hài cốt của những nạn nhân này bị chôn giấu, không được trả về cho gia đình, biến đây thành tội ác thủ tiêu mất tích ngườitội ác chống nhân loại theo dự liệu của Đạo Luật Rome.

Những người này không phải là tù binh chiến tranh được đối xử theo Công ước Geneva, mà bị chính quyền mới coi là "tù nhân" và đối tượng để thanh trừng.


II. Sự Tàn Bạo Trong Lao Tù Cải Tạo

Chính sách của Cộng sản Việt Nam, chịu ảnh hưởng từ tư tưởng Lênin về việc giam giữ lâu dài "bọn phản động" và học tập phương pháp tàn bạo của Stalin, đã dẫn đến sự hành hạ thể xác và tinh thần một cách có hệ thống.

  • Bỏ Đói và Lao động Kiệt sức: Chế độ ăn uống trong trại tù cải tạo là cực kỳ kham khổ, không đủ duy trì sự sống. Bữa ăn chỉ với vài củ khoai, bo bo, và lượng chất bột ít ỏi, hoàn toàn thiếu chất béo, chất xơ và chất đạm. Trong khi đó, tù nhân bị ép buộc lao động nặng nhọc, từ gánh phân, gánh đá núi, cưa xẻ gỗ lớn đến cuốc đất trong điều kiện thiếu thốn trầm trọng. Nhiều người đã chết vì đói, vì thiểu lực và tai nạn lao động.

  • Môi trường Ngục tù Thê thảm: Lời kể của các cựu tù nhân như Tạ TỵLinh Mục Nguyễn Hữu Lễ mô tả cảnh giam cầm chật chội, ngột ngạt, không vệ sinh, bệnh tật (đặc biệt là bệnh kiết lỵ) hoành hành không thuốc men. Việc thiếu thốn đến mức phải nhặt rác để tìm đồ dùng hay uống nước vo gạo để chống bệnh phù thũng là minh chứng rõ nhất cho sự đối xử vô nhân đạo.

  • Hình phạt Thể xác và Tra tấn: Tù nhân bị đánh đập, bị phạt quỳ, và chịu những hình thức hành hạ man rợ như bị còng chéo gây đau đớn thấu xương. Việc giam giữ lâu dài, kèm theo chế độ kỷ luật hà khắc, nhằm mục đích tẩy não và hành xác những người lầm đường lạc lối.


III. Vai Trò Đầu Sỏ Của Lê Duẩn

Các bằng chứng trích dẫn trong bài viết chỉ rõ Lê Duẩn, với vai trò Bí thư thứ Nhất (sau này là Tổng Bí thư) của Đảng Lao động Việt Nam, chính là kẻ chủ trương và đầu xỏ chỉ đạo chính sách tàn bạo này.

  • Là người đứng đầu Đảng và Nhà nước, Lê Duẩn đã trực tiếp vào miền Nam nắm tình hình và ra quyết định đối xử với quân dân cán chính VNCH.

  • Ông đã bày tỏ sự tâm đắc với chủ trương "lao động cải tạo để trở thành những công dân có ích cho xã hội mới," thực chất là che đậy cho việc hành hạ.

  • Đặc biệt, tài liệu được giải mật của Liên Xô năm 2008 đã chỉ ra rằng chính Lê Duẩn là người đã đề ra chính sách "kỷ luật hà khắc" đối với lính chế độ Sài Gòn trong cuộc họp Bộ Chính trị, với mục đích "không để cho ngụy quân, ngụy quyền có thể nổi lên bằng việc áp dụng mô hình nhà tù như thời đồng chí Xtalin."

Lê Duẩn và tập đoàn lãnh đạo Cộng sản đã chọn trả thù đồng bào thay vì hòa hợp dân tộc, đẩy hàng triệu người vào bi kịch, và phạm phải tội ác vi phạm công ước về tù binh chiến tranh và luật nhân đạo quốc tế.


Lời Kết Lên Án

Sự tàn bạo, độc ác và ác cảm sâu sắc đối với chính đồng bào mình (quân dân cán chính VNCH) trong khi lại tỏ ra yêu mến và học tập các "đồng chí" Xô Viết, Trung QuốcCampuchia (sau này là chế độ Khmer Đỏ tàn bạo) đã phơi bày bản chất phản dân tộcđộc tài của chế độ Cộng sản Việt Nam.

Chúng ta cần đoàn kết để lên án mạnh mẽ tội ác này, đòi lại sự thật lịch sử và danh dự cho những người quân dân cán chính VNCH—những người đã phải chịu đựng đọa đày trong lao tù khắc nghiệt. Việc phơi bày sự thật là cách để vinh danh những người đã hy sinh vì tự do và để ngăn chặn tội ác tương tự tái diễn.


 Tuyên Cáo Lên Án: Chính Sách Trả Thù và Tàn Bạo của Cộng Sản Việt Nam Sau 1975

Sau ngày 30/4/1975, thay vì hòa giải dân tộc, chính quyền Cộng sản Việt Nam đã thực hiện một chiến dịch trả thù có hệ thống đối với quân dân cán chính Việt Nam Cộng Hòa (VNCH). Dưới danh nghĩa “học tập cải tạo,” hàng trăm ngàn người đã bị giam giữ, tra tấn, và bỏ đói trong các trại tù rải khắp cả nước—một mô hình được vay mượn từ Stalin và Mao Trạch Đông.

⚖️ Tội Ác Có Hệ Thống

  • Giam giữ phi pháp: Hơn 1 triệu người bị đưa đi cải tạo, không xét xử, không bảo vệ pháp lý, trái với Công ước Geneva.

  • Thời gian tù đày phi lý: Nhiều người bị giam từ 5 đến 17 năm, trong điều kiện sống khắc nghiệt, thiếu thốn, và bị cưỡng bức lao động.

  • Tử vong và mất tích: Ước tính 165.000 người đã chết trong các trại cải tạo. Nhiều hài cốt không được trả về, biến đây thành tội ác thủ tiêu và vi phạm nhân đạo quốc tế.

🔥 Mô Hình Tàn Bạo Sao Chép Từ Ngoại Bang

  • Tư tưởng Stalinist: Chính sách “kỷ luật hà khắc” được Lê Duẩn áp dụng nhằm triệt tiêu khả năng phục hồi của quân dân VNCH.

  • Ảnh hưởng Maoist: Việc cải tạo tư tưởng, lao động cưỡng bức, và tẩy não được triển khai như một công cụ kiểm soát xã hội.

  • Phản dân tộc: Thay vì hòa hợp, lãnh đạo Cộng sản đã chọn con đường trả thù, gây ra thảm họa nhân đạo kéo dài nhiều thập kỷ.

🧠 Vai Trò của Lê Duẩn

Lê Duẩn, với tư cách là Bí thư thứ Nhất, là kiến trúc sư chính của chính sách cải tạo. Tài liệu giải mật từ Liên Xô cho thấy ông đã chủ trương áp dụng mô hình nhà tù Stalin để “ngăn ngừa sự nổi dậy” của quân dân VNCH—một quyết định mang tính trừng phạt hơn là tái hòa nhập.

📣 Lời Kêu Gọi

Chúng ta không thể để những chương đen tối này bị xóa nhòa. Việc lên án tội ác, đòi lại sự thật lịch sử, và phục hồi danh dự cho những người đã bị đàn áp là trách nhiệm đạo đức của mọi người Việt Nam yêu chuộng công lý.

Hậu Chiến tranh Việt Nam: Thảm cảnh ...

Sự du nhập Chủ nghĩa Cộng sản (Mác-Lênin) vào Việt Nam bởi Hồ Chí Minh, gây ra chiến tranh, thảm sát hàng triệu người và tàn phá đất nước. 


Hồ Chí Minh và Bi Kịch Du Nhập Chủ Nghĩa Cộng Sản: Sự Đánh Đổi Độc Lập Bằng Máu và Nước Mắt

I. Lời Mở Đầu: Hậu Quả Khủng Khiếp của Sự Lựa Chọn Sai Lầm

Văn kiện về quá trình du nhập Chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam đã nêu rõ Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh) là người tiên phong đưa hệ tư tưởng này vào đất nước từ những năm 1920, qua ảnh hưởng của Cách mạng Nga và phong trào Cộng sản Trung Quốc. Tuy nhiên, điều mà văn bản ca ngợi là sự "thức thời" và "tất yếu lịch sử" lại chính là nguyên nhân sâu xa dẫn đến thảm kịch dân tộc kéo dài hơn nửa thế kỷ.

Hành động du nhập và áp đặt Chủ nghĩa Cộng sản vào một xã hội đang tìm kiếm con đường hiện đại hóa và độc lập đã biến khát vọng dân tộc thành cuộc chiến giai cấp tàn bạo, gây ra hai cuộc chiến tranh khốc liệt (chống Pháp và nội chiến), thảm sát hàng triệu sinh linh qua cải cách ruộng đất và chiến đấu, đồng thời đẩy đất nước vào tình trạng điêu tàn, lạc hậu dưới chế độ độc tài và phụ thuộc ngoại bang. Sự lựa chọn của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản không phải là sự giải phóng, mà là một bi kịch lịch sử mà dân tộc Việt Nam phải gánh chịu.


II. Phủ Nhận Con Đường Duy Tân: Đánh Đổi Văn Minh Lấy Đấu Tranh Giai Cấp

Văn bản gốc đã đề cập đến Phong trào Duy Tân đầu thế kỷ XX – với mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội văn minh, công bằng" – như một hệ vấn đề có tính kế thừa lịch sử mà sau này (những năm 1990) mới được khôi phục. Chính việc Hồ Chí Minh đưa Chủ nghĩa Cộng sản vào đã bóp chết con đường tiến bộ ôn hòa này.

  • Bác bỏ Hiện đại hóa ôn hòa: Phong trào Duy Tân, dù non trẻ, là nỗ lực đầu tiên của trí thức Việt Nam nhằm đoạn tuyệt với Nho giáo lỗi thời và tiếp thu văn minh phương Tây một cách chủ động, đặt nền móng cho một xã hội tư sản tự do, dân chủ. Đây là con đường phát triển phù hợp với xu thế toàn cầu, giống như Nhật Bản hay các quốc gia Đông Nam Á khác.

  • Áp đặt Thù hằn Giai cấp: Khi Chủ nghĩa Mác-Lênin du nhập, nó đã thay thế hệ vấn đề "văn minh" bằng hệ vấn đề "giai cấp". Sự lựa chọn này đã biến cuộc đấu tranh giành độc lập thành cuộc chiến huynh đệ tương tàn. Mục tiêu "dân giàu, nước mạnh" bị đẩy lùi, thay thế bằng khẩu hiệu "cách mạng xã hội" và "chuyên chính vô sản"—một học thuyết phi thực tế và tàn bạo đối với một xã hội nông nghiệp lạc hậu.

  • Thảm sát Cải cách Ruộng đất: Hậu quả bi thảm nhất của việc áp đặt học thuyết giai cấp chính là Cải cách Ruộng đất (1953-1956). Với sự sao chép nguyên xi mô hình đấu tố từ Trung Quốc (như văn bản gốc thừa nhận sự ảnh hưởng lớn từ Mao Trạch Đông), hàng chục nghìn, thậm chí hàng trăm nghìn người dân vô tội bị kết án "địa chủ," bị đấu tố và hành quyết dã man. Đây không phải là giải phóng dân tộc, mà là tàn sát dân tộc dưới danh nghĩa lý tưởng ngoại lai.


III. Nguồn Gốc Ngoại Lai và Sự Lệ Thuộc Chính Trị

Văn bản gốc đề cập rõ ràng rằng Chủ nghĩa Mác-Lênin ở Việt Nam chịu ảnh hưởng trực tiếp từ Liên Xô và Trung Quốc. Sự "tất yếu lịch sử" này thực chất là sự lệ thuộc chính trị và ý thức hệ một cách mù quáng, gây hại đến lợi ích quốc gia.

  • Sao chép Chính sách Mù quáng: Đảng Cộng sản Việt Nam đã sao chép nguyên xi các chính sách của Mao Trạch Đông (như văn bản gốc liệt kê: "cải tạo xã hội chủ nghĩa," "hợp tác hóa nông nghiệp," "chỉnh phong, chỉnh đảng"). Những chính sách này đã phá hủy nền kinh tế tự do đang manh nha phát triển, biến miền Bắc thành một xã hội nghèo đói, trì trệ, hoàn toàn phụ thuộc vào viện trợ của khối Cộng sản.

  • Lý luận Ngoại lai và Phi Việt Nam: Văn bản cũng thừa nhận rằng nhiều cán bộ Cộng sản không hề đọc Marx, Engels hay Lenin mà chủ yếu "nhập môn" qua tác phẩm của Stalin và Mao Trạch Đông. Điều này chứng tỏ "Chủ nghĩa Cộng sản Việt Nam" thực chất là sự chấp nhận một lý thuyết đã bị bóp méo, được điều hành bởi quyền lực của Liên Xô và Trung Quốc, chứ không phải là sự sáng tạo hay vận dụng bản địa như Hồ Chí Minh tuyên bố.

  • Sự Đánh Đổi Độc Lập: Sự lệ thuộc ý thức hệ này đã đẩy Việt Nam vào tình thế phải chịu sự chi phối từ các cường quốc Cộng sản, đặc biệt là trong cuộc chiến tranh khốc liệt sau này. Đây là một sự đánh đổi phi lý: giành được độc lập khỏi Pháp, nhưng lại tự nguyện đặt mình dưới sự điều khiển và ảnh hưởng nặng nề của các chính quyền độc tài khác.


IV. Chiến Tranh và Sự Tàn Phá: Hàng Triệu Sinh Mạng Đổ Xuống

Sự lựa chọn Chủ nghĩa Cộng sản của Hồ Chí Minh đã trực tiếp dẫn đến Chiến tranh Việt Nam (1954-1975), gây ra cái chết của hàng triệu người Việt và khiến đất nước thụt lùi nhiều thập kỷ.

  • Chiến tranh không cần thiết: Sau năm 1954, lẽ ra Việt Nam có thể chọn con đường phát triển kinh tế và chính trị độc lập, ôn hòa. Tuy nhiên, việc cố chấp thực hiện "cách mạng vô sản triệt để" và ý chí thống nhất bằng bạo lực của Đảng Cộng sản đã khiến hiệp định Geneva bị phá vỡ, gây nên cuộc nội chiến đẫm máu.

  • Tàn sát Dân sự: Hàng triệu người lính và dân thường miền Nam và miền Bắc đã bị đẩy vào cuộc chiến mà bản chất là cuộc chiến ý thức hệ quốc tế đội lốt giải phóng dân tộc. Sự hy sinh này là vô nghĩa khi mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội văn minh" của Duy Tân đã bị từ bỏ để theo đuổi một mô hình đã thất bại ở chính nơi nó được sinh ra.

  • Đất nước Điêu tàn: Sau năm 1975, thay vì xây dựng lại, Đảng Cộng sản tiếp tục áp dụng mô hình kinh tế tập trung xã hội chủ nghĩa, dẫn đến sự nghèo đói cùng cựcsự đổ vỡ kinh tế kéo dài cho đến khi buộc phải "Đổi Mới" (Duy Tân hóa) vào những năm 1990 – một sự thừa nhận thất bại sau hơn 40 năm áp dụng học thuyết Cộng sản.


V. Kết Luận: Lời Phê Phán và Khát Vọng Tự Do

Sự du nhập Chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam bởi Hồ Chí Minh không phải là "tất yếu lịch sử" mà là một lựa chọn tai hại, một hành vi phiêu lưu chính trị đã cướp đi sinh mạng, sự tự do, và tiềm năng phát triển của dân tộc.

Chúng ta phải lên án hành vi áp đặt hệ tư tưởng ngoại lai tàn bạo này, vốn đã:

  1. Phủ nhận con đường văn minh, tự chủ của phong trào Duy Tân.

  2. Gây ra thảm sát và đàn áp dân tộc qua các chiến dịch đấu tố và chiến tranh giai cấp.

  3. Đẩy đất nước vào tình trạng lệ thuộcđộc tài suốt nhiều thập kỷ.

Chừng nào Việt Nam chưa thực sự đoạn tuyệt với tàn dư của Chủ nghĩa Cộng sản độc tài, chưa thực sự quay về với khát vọng dân chủ, tự do, và văn minh của những nhà yêu nước tiền bối, bi kịch lịch sử vẫn chưa chấm dứt. Sự thật về máu và nước mắt đổ ra vì lý tưởng Mác-Lênin phải được phơi bày như một lời cảnh tỉnh cho thế hệ hôm nay.




 Lên Án Chế Độ Tàn Bạo: Khi Người Cộng Sản Việt Nam Trở Thành Kẻ Thù Của Chính Đồng Bào Mình

Trong lịch sử hiện đại, hiếm có chế độ nào lại thể hiện sự tàn nhẫn với chính dân tộc mình như giới lãnh đạo Cộng sản Việt Nam sau năm 1975. Thay vì hòa giải và tái thiết đất nước, họ đã chọn con đường trả thù, đàn áp, và bóc lột chính những người từng phục vụ chế độ Việt Nam Cộng Hòa—những người cũng là con dân Việt Nam.

🩸 Một Chế Độ Tôn Thờ Bạo Lực và Thủ Tiêu

  • Tư tưởng độc tài: Lãnh đạo Cộng sản Việt Nam không ngần ngại học theo mô hình Stalin và Mao Trạch Đông, tôn thờ chủ nghĩa Mác–Lênin như một giáo điều tuyệt đối, bất chấp hậu quả nhân đạo.

  • Đàn áp đồng bào: Họ sẵn sàng giam giữ, tra tấn, và thủ tiêu hàng trăm ngàn người Việt Nam chỉ vì khác biệt chính kiến hoặc từng phục vụ chế độ cũ. Những người này không phải là kẻ thù ngoại bang, mà là anh em, cha mẹ, con cái của chính họ.

  • Chiếm đoạt tài sản quốc gia: Dưới danh nghĩa “xây dựng xã hội chủ nghĩa,” giới lãnh đạo đã chiếm hữu đất đai, tài nguyên, và quyền lực, biến cả quốc gia thành công cụ phục vụ cho lợi ích phe nhóm.

🎭 Chủ Nghĩa Cộng Sản – Chiếc Mặt Nạ Cho Sự Tham Lam và Tàn Ác

Chủ nghĩa cộng sản, trong tay những kẻ độc tài, không còn là lý tưởng bình đẳng mà trở thành lớp vỏ che đậy cho sự thao túng, bóc lột, và đàn áp. Những khẩu hiệu “vì nhân dân” chỉ là ngôn từ rỗng tuếch khi chính nhân dân bị biến thành nạn nhân của hệ thống tù đày, kiểm duyệt, và nghèo đói kéo dài.

📣 Lời Kêu Gọi

Lịch sử không thể bị bóp méo. Những tội ác chống lại chính đồng bào mình cần được phơi bày, lên án, và ghi nhớ. Việc phục hồi danh dự cho những người bị đàn áp không chỉ là hành động công lý, mà còn là bước đầu để xây dựng một tương lai Việt Nam nhân bản, công bằng và không còn bị cai trị bởi sự sợ hãi.

Phản Biện Luận Điệu Về Vai Trò Độc Quyền Của CN M-L và QTCS

Tuyên truyền này sử dụng một mô thức lịch sử nhằm thần thánh hóa vai trò của Hồ Chí Minh và QTCS, từ đó hợp thức hóa sự độc quyền cai trị của ĐCSVN. Tuy nhiên, lập luận này che giấu đi sự thật về tính lệ thuộc, tính áp đặt giai cấp và sự triệt tiêu các con đường cách mạng khác.

1. Bác Bỏ Vai Trò "Tối Thượng" Của Quốc tế Cộng sản (QTCS)

Tuyên truyền ca ngợi QTCS là "Bộ tham mưu" của cách mạng thế giới và là nơi đào tạo, chỉ đạo tuyệt đối cho ĐCSVN.

  • Tính Lệ Thuộc và Thiếu Tính Dân Tộc:

    • Bài viết khẳng định: "Đ Tam quốc tế là một Đảng Cộng sản thế giới. Các đảng các nước là như chi bộ, đều phải nghe theo kế hoạch và quy tắc chung. Việc gì chưa có mệnh lệnh và kế hoạch Đ Tam quốc tế thì các đảng không được làm."

    • Phản biện: Sự tuân thủ tuyệt đối này chứng minh tính lệ thuộc nghiêm trọng của những người Cộng sản Việt Nam vào một tổ chức ngoại bang do Liên Xô kiểm soát. Con đường cứu nước đúng đắn cho Việt Nam lại được xác định bởi "Bộ tham mưu" ở Moscow, phục vụ lợi ích của hệ thống Xã hội chủ nghĩa toàn cầu (mà cốt lõi là Liên Xô), chứ không hoàn toàn vì lợi ích dân tộc Việt Nam.

    • Việc áp đặt ý thức hệ giai cấp ("đập đổ tư bản," "liên kết với vô sản trên thế giới") lên trên mục tiêu GPDT đã dẫn đến những chính sách cực đoan, chia rẽ dân tộc sau này (như việc nhấn mạnh đấu tranh giai cấp thay vì đại đoàn kết toàn dân tộc).

  • Độc Đoán Tư Tưởng và Triệt Tiêu Đa Nguyên:

    • Tuyên truyền nhấn mạnh QTCS chỉ đạo "Chỉ thị, nghị quyết" cho ĐCSVN.

    • Phản biện: Việc thừa nhận CN M-L được "tiếp thu và vận dụng" thông qua các chỉ thị, nghị quyết của QTCS, kết hợp với việc áp dụng triệt để nguyên tắc tập trung cao độ (như đã thấy trong đoạn văn trước), đã biến CN M-L thành một giáo điều chính trị thay vì một học thuyết khoa học. Điều này đã triệt tiêu mọi tư tưởng dân chủ, tư bản, hay phi Cộng sản ngay từ trong trứng nước, bóp nghẹt mọi con đường phát triển khác của đất nước.


2. Thao Túng Lịch Sử Về "Tính Tất Yếu" Của CN M-L

Tuyên truyền lập luận rằng quá trình truyền bá CN M-L là "có hệ thống, tổ chức và phát triển từ đơn giản đến phức tạp," kết quả là sự thành công viên mãn.

  • Tính Áp Đặt và Bạo Lực:

    • Bài viết chia quá trình truyền bá thành ba giai đoạn: nhận thức (Paris), giác ngộ (Moscow), và hành động (Quảng Châu), và khẳng định "Nếu thiếu một trong ba trình tự trên thì QTTB... sẽ bị khập khiễng, thiếu hụt và có thể sẽ thất bại."

    • Phản biện: Sự thành công của CN M-L ở Việt Nam không phải là "tất yếu lịch sử" mà là kết quả của việc áp dụng phương tiện bạo lực triệt để (được QTCS hậu thuẫn) để loại trừ các đối thủ (như VNQDĐ bị tiêu diệt) và kiểm soát tuyệt đối các phương tiện truyền bá.

    • Việc nhấn mạnh "phương tiện tuyên truyền sống" (cán bộ) ở Quảng Châu là đòn quyết định không chỉ là chiến thuật, mà còn là phương thức xây dựng một hệ thống tuyên truyền độc tài, thâm nhập và kiểm soát xã hội từ gốc, bỏ qua tranh luận công khai và đa nguyên.

  • Đánh Giá Thấp Các Phương Hướng Duy Tân/Dân Chủ:

    • Tuyên truyền mô tả giới trí thức yêu nước như Phan Thanh (Vận động Dân chủ 1936-1939) có vai trò tích cực, nhưng vẫn đặt nó trong khuôn khổ "cao trào Cách mạng Tháng Tám" do Đảng Cộng sản lãnh đạo.

    • Phản biện: Các phong trào dân chủ và lập hiến như của Phan Thanh (nghị trường) đã chứng minh một khả năng đấu tranh công khai, ôn hòa, và hợp pháp nhằm đòi quyền tự do dân chủ (Duy Tân/Đổi Mới) ngay trong khuôn khổ thực dân. Đây là con đường hướng tới chính trị đa nguyên và dân chủ lập hiến thay vì chuyên chính. Tuy nhiên, CN M-L đã lợi dụng các phong trào này để xây dựng lực lượng, nhưng ngay sau khi giành được chính quyền, họ lại triệt tiêu mọi hình thức đấu tranh nghị trường và công khai, thiết lập chế độ độc đảng toàn trị.


3. Thất Bại Của Hệ Thống Truyền Bá Độc Tôn Trong Thời Đại Mới

Bài viết kết luận rằng kinh nghiệm truyền bá của Hồ Chí Minh vẫn còn "nguyên giá trị lý luận, thực tiễn sâu sắc" đối với ĐCSVN ngày nay.

  • Tính Lỗi Thời Của "Giá Trị" Tuyên Truyền:

    • Phản biện: Những phương pháp tuyên truyền của giai đoạn 1921-1930 (báo chí cánh tả, truyền đơn, tuyên truyền "sống") được xây dựng trong bối cảnh xã hội thuộc địa, dân trí thấp, và bị kiểm duyệt gắt gao. Áp dụng nguyên tắc tuyên truyền một chiều, độc tôn này vào thời đại Internet, toàn cầu hóa, và xã hội thông tin là phản khoa học và phản lại tinh thần Duy Tân/Đổi Mới mà chính họ đang thực hiện về mặt kinh tế.

    • Việc nhấn mạnh "liều lượng" và "sức mạnh tổng hợp" của các phương tiện truyền bá trong thời đại hiện nay chỉ nhằm mục đích kiểm soát thông tin, đàn áp tự do báo chí và ngôn luận, kìm hãm sự phát triển của xã hội dân sựđa nguyên tư tưởng — những yếu tố thiết yếu cho một quốc gia "giàu mạnh và văn minh" thực sự.

  • Hệ Quả Độc Tài:

    • Hệ thống truyền bá độc tôn dựa trên CN M-L đã tạo ra một bộ máy chính trị không có cơ chế tự phản biện hiệu quả. Điều này dẫn đến các sai lầm lịch sử nghiêm trọng (Đại nhảy vọt tư tưởng, Cải cách ruộng đất, Cải tạo Công thương nghiệp, bao cấp, v.v.).

    • Sự duy trì "giá trị" tuyên truyền này là công cụ để bảo vệ đặc quyền của tầng lớp lãnh đạo hiện tại, chứ không phải để phục vụ lợi ích phát triển bền vững của quốc gia.

Kết luận: Sự du nhập và thành công của Chủ nghĩa Mác-Lênin ở Việt Nam là một sự lựa chọn chính trị được củng cố bởi hỗ trợ từ QTCS, khả năng tổ chức tuyệt đối và sử dụng bạo lực để triệt tiêu các đối thủ dân tộc chứ không phải một "tất yếu lịch sử." Tiếp tục ca ngợi và áp dụng các kinh nghiệm tuyên truyền độc tôn này trong thế kỷ 21 là hành động chống lại tiến trình dân chủ hóa và hiện đại hóa đất nước.

PHÊ PHÁN CỰC LỰC LUẬN ĐIỆU TUYÊN TRUYỀN: HÀNH TRÌNH CỦA NGUYỄN TẤT THÀNH - SỰ LỰA CHỌN Ý THỨC HỆ CƯỠNG ÉP VÀ THẢM HỌA DÂN TỘC

Bài tuyên truyền về "Nguyễn Tất Thành đi tìm đường cứu nước – ý nghĩa lịch sử và thời đại" là một biện hộ lịch sử mị dân, cố gắng tô vẽ một quyết định chính trị cá nhân thành một "ý chí vĩ đại" và "con đường tất yếu" của dân tộc. Thực chất, đây là một quá trình bị tiêm nhiễm tư tưởng ngoại lai vào một tâm hồn trẻ tuổi thiếu nền tảng học thuật, dẫn đến lựa chọn sai lầm kinh thiên động địa – con đường Cộng sản, đã gieo rắc chiến tranh, thù hận giai cấp và sự chậm phát triển cho Việt Nam gần nửa thế kỷ.


1. NỀN TẢNG HỌC THUẬT RỖNG TUẾCH VÀ SỰ NHỒI SỌ TƯ TƯỞNG CƯỠNG ÉP

Bài tuyên truyền cố gắng thần thánh hóa hành trình của Nguyễn Tất Thành (Văn Ba) bằng cách đề cao "tầm nhìn," "trí tuệ thiên tài," và "quá trình học tập, khảo sát, nghiên cứu kỹ lưỡng" trong gần một thập kỷ. Tuy nhiên, sự thật phũ phàng về hành trang ban đầu của người thanh niên này là không thể chối cãi:

  • Xuất phát điểm học vấn mỏng manh: Nguyễn Tất Thành chỉ mới học xong cấp I (tiểu học lớp 6). Ông hoàn toàn thiếu vắng kiến thức nền tảng về khoa học, kỹ thuật hiện đại, triết lý phương Tây (như Khai sáng, Dân chủ Lập hiến), văn chương, kinh tế thị trường và các học thuyết chính trị, xã hội tiên tiến khác.

  • Hoạt động "chui" và môi trường cực đoan: Hành trình của ông không phải là "hội nhập quốc tế" mà là một cuộc vượt biên bất hợp pháp, làm lao động chui (phụ bếp, quét tuyết, thợ ảnh) tại Pháp, Anh, Mỹ. Môi trường tiếp xúc chủ yếu là giới lao động cùng khổ, những người bất mãn xã hội cực đoan (anarchists, syndicalists) và các thành phần cánh tả cấp tiến tại Pháp – những người luôn coi Chủ nghĩa Tư bản là kẻ thù.

  • Tiếp nhận sách vở phiến diện: Việc "vô được mấy quyển sách" và gặp gỡ những người Cộng sản Pháp đã trở thành cái bẫy trí tuệ cho người thanh niên thiếu nền tảng. Thay vì có thể phân tích, so sánh một cách khoa học giữa Chủ nghĩa Mác (một lý thuyết kinh tế-xã hội đã bị phê phán nặng nề ở phương Tây) với các học thuyết dân chủ xã hội, dân chủ tự do, hay kỹ trị, ông đã bị nhồi sọ một cách dễ dàng. Ông bị dẫn dắt để tin vào một giáo điều duy nhất: "Muốn cứu nước... không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản." Luận điệu này triệt tiêu hoàn toàn mọi phương án cứu nước khác.

2. PHẢN BÁC SỰ LỰA CHỌN "CÁCH MẠNG VÔ SẢN" LÀ "TẤT YẾU"

Bài tuyên truyền ca ngợi Hồ Chí Minh đã "thấy rõ hạn chế" của Cách mạng Tư sản Pháp và Mỹ, đồng thời cho rằng các nhà yêu nước khác (Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh) đã "lỗi thời." Đây là một sự xuyên tạc trắng trợn lịch sử và triết lý chính trị.

2.1. Đánh Đồng Dân Chủ Lập Hiến Với Lỗi Thời

  • Sự thật về các cụ Phan: Phan Bội Châu (quân chủ lập hiến) và Phan Châu Trinh (dân chủ cộng hòa) là những người thực sự tiên phong trong việc du nhập mô hình chính trị và kinh tế hiện đại vào Việt Nam. Họ tìm kiếm sự độc lập đi kèm với văn minh, tự do cá nhân, và thị trường tự do, dựa trên các mô hình tiến bộ của Nhật Bản, Mỹ, và Pháp.

  • Phê phán cách mạng vô sản: Cái gọi là "con đường cách mạng vô sản" mà Hồ Chí Minh lựa chọn lại chính là mô hình độc tài, toàn trị do Lenin sáng lập, đã gây ra thảm họa giết người hàng loạt ở Liên Xô ngay từ thập niên 1920. Lựa chọn Chủ nghĩa Mác-Lênin là lựa chọn một học thuyết kinh tế thất bại và một chế độ chính trị áp bức, hoàn toàn đi ngược lại xu thế phát triển hòa bình, đa nguyên của nhân loại thời bấy giờ.

  • Sai lầm cốt lõi: Luận điểm cho rằng cách mạng giải phóng dân tộc "phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa"sự áp đặt giáo điều. Nó buộc dân tộc Việt Nam, sau khi giành được độc lập, phải đi vào con đường Độc Đảng (Chuyên chính vô sản), Kinh tế Tập trung (bao cấp), và Đấu tranh Giai cấp, biến nhân dân thành công cụ của ý thức hệ thay vì được hưởng tự do và dân chủ đích thực.

2.2. Lệ Thuộc Ngoại Bang và Thù Hận Giai Cấp

Việc Nguyễn Ái Quốc chấp nhận sự chỉ đạo từ Quốc tế Cộng sản (Comintern) tại Moscow – tổ chức do Liên Xô kiểm soát – đã biến cuộc đấu tranh dân tộc thành một công cụ của lợi ích địa chính trị Xô Viết chống lại phương Tây.

  • Phá hoại Đại Đoàn Kết: Thay vì tập trung toàn lực vào mục tiêu độc lập dân tộc (như các đảng phái khác), CN M-L lại chẻ nhỏ dân tộc thành các giai cấp đối kháng (vô sản, nông dân đối lập với địa chủ, tư sản dân tộc), gây ra sự thù hận nội bộ và dẫn đến các thảm kịch như Cải cách ruộng đất sau này.

  • Hệ quả Chiến tranh: Việc ôm đồm giáo điều CN M-L đã buộc Việt Nam phải dấn thân vào hai cuộc chiến tranh kéo dài gần nửa thế kỷ (1945–1975) để hoàn thành sứ mệnh "Cách mạng Vô sản" và "Đánh đổ đế quốc." Thảm họa chiến tranh, chia cắt, và sự hy sinh không đếm xuể của hàng triệu sinh linh Việt Nam là hậu quả trực tiếp của sự lựa chọn ý thức hệ cực đoan và phi thực tiễn này.

3. LỜI KẾT: CÁI GIÁ MÁC-LÊNIN

Hành trình của Nguyễn Tất Thành không phải là con đường "tương thích với sự vận động, xu thế phát triển mới" mà là một sự lạc lối bi thảm vào Chủ nghĩa Cộng sản – một mô hình đã được lịch sử thế giới chứng minh là bất khả thi, phi nhân văn và độc tài.

Việc ca tụng rằng "Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội" là "triết lý phát triển Việt Nam" chỉ là một cách bắt buộc nhân dân chấp nhận một mô hình chính trị đã kìm hãm sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước trong nhiều thập kỷ (thời bao cấp). Chỉ khi ĐCSVN phá bỏ giáo điều Mác-Lênin và chấp nhận cơ chế Kinh tế Thị trường (trong công cuộc Đổi mới), đất nước mới có cơ hội phát triển.

Thảm kịch của Việt Nam là sự lựa chọn ý thức hệ được đưa ra bởi một cá nhân thiếu nền tảng học thuật vững chắc, bị nhồi sọ trong môi trường Cộng sản cực đoan, đã phải trả bằng máu và nước mắt của nhiều thế hệ, khiến đất nước tụt hậu so với các quốc gia cùng xuất phát điểm ở Đông Nam Á. Ý nghĩa lịch sử thực sự của ngày 5/6/1911 không phải là sự khởi đầu của một con đường vinh quang, mà là sự bắt đầu của thảm họa ý thức hệ gieo rắc vào lòng dân tộc.


  • 📷 : Gồm ảnh các lớp học cải tạo, cảnh sinh hoạt trong nhà bếp, lao động cưỡng bức ở Tây Ninh, và sơ đồ các trại giam như Z30D.

  • 📷 : Có ảnh cựu quân nhân VNCH lao động trong rừng, cảnh giam giữ tập thể, và lời kể về các vụ tử vong vì đói, bệnh, và hành quyết.

  • 📷 : Tư liệu về điều kiện sống, lao động, và các hình thức trừng phạt trong trại.

  • 📷 : Ghi lại hành trình sống sót của một cựu tù nhân cải tạo, với hình ảnh và lời kể đầy ám ảnh.



  •  Bản để in  Lưu dạng file  Gửi tin qua email  Thảo luận


    Những nội dung khác:
    Cải Tạo! [27.04.2025 10:06]




    Lên đầu trang

         Tìm kiếm 

         Tin mới nhất 

         Đọc nhiều nhất 
    Tại sao Du khách Việt sinh viên du học VN và các nước khác chọn Canada thay vì Mỹ - Hướng dẫn định cư tại Canada [Đã đọc: 417 lần]
    🧨 Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam: [Đã đọc: 408 lần]
    Hãy loại bỏ thuật ngữ ‘giải phóng’ khỏi ngôn ngữ VN và nhân loại [Đã đọc: 372 lần]
    Tội Ác Của Chủ Nghĩa Thực Dân Pháp tại VN và thế giới [Đã đọc: 345 lần]
    🧨 Hun Sen và trò chơi chính trị bẩn thỉu: Khi tình bạn bị lợi dụng để hạ bệ một thủ tướng Xây tường biên giới [Đã đọc: 342 lần]
    🧨 “TRUMP IS DEAD” – Khi một tin đồn trở thành cơn địa chấn truyền thông [Đã đọc: 340 lần]
    Lời Kêu Gọi Tự Hào & Hành Động Cộng Đồng: Mở ngân hàng thực phẩm cho miễn phí - Cách cải thiện nhà hàng Việt Nam để nâng cao tầm vóc thực phẩm Việt [Đã đọc: 312 lần]
    Orbán – “Điệp viên hoàn hảo” của Kremlin trong lòng EU? - Donald Trump phá hoại thế giới tự do làm lợi cho Putin [Đã đọc: 307 lần]
    Bàn Tay Thâm Tím Của Donald Trump [Đã đọc: 289 lần]
    Nâng tầm đóng góp XHCN Việt Nam cho chính trị thế giới, kinh tế toàn cầu, văn minh nhân loại [Đã đọc: 282 lần]

    Trang chủ :: Tin tức - Sự kiện :: Website tiếng Việt lớn nhất Canada email: vietnamville@sympatico.ca :: Bản sắc Việt :: Văn hóa - Giải trí :: Khoa học kỹ thuật :: Góc thư giãn :: Web links :: Vietnam News in English :: Tài Chánh, Đầu Tư, Bảo Hiểm, Kinh Doanh, Phong Trào Thịnh Vượng :: Trang thơ- Hội Thi Nhân VN Quốc Tế - IAVP :: Liên hệ

    Bản quyền: Vietnamville
    Chủ Nhiệm kiêm Chủ Bút: Tân Văn.